• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Thứ Năm, 21/11/2024 20:35
Thông tin kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum tháng 9 và 9 tháng năm 2024
Cập nhật: Thứ Tư, 02/10/2024 15:28

 

Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, năm 2024 được dự báo sẽ tiếp tục còn nhiều khó khăn và thách thức. Với quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu năm 2024 đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh xác định tại các Nghị quyết[1]. Nhằm khẩn trương, kiên quyết khắc phục những mặt còn hạn chế, bất cập; quyết tâm nỗ lực hoàn thành đạt và vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ngay từ những ngày đầu năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 24/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2024 Ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024.

Đến thời điểm tháng 9/2024, đa số các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan hơn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với các dự báo đưa ra trước đó. Cụ thể, Fitch Ratings (FR) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,7%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2024; Liên hợp quốc (UN)  nhận định nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% trong năm 2024, tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)  dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2024 đạt 3,2%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5/2024. Riêng Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)  giữ nguyên mức dự báo trong tháng 4/2024 khi nhận định nền kinh thế giới đạt mức tăng trưởng 3,2% năm 2024.

Trong Báo cáo “Triển vọng phát triển châu Á”, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)  giữ nguyên dự báo tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á (bao gồm Timo-Leste) so với tháng 4/2024, đạt 4,6% năm 2024, nhờ nhu cầu trong và ngoài nước được cải thiện. Tăng trưởng GDP của Việt Nam và Phi-li-pin năm 2024 dự báo cao nhất khu vực, đạt 6,0%, theo sau là In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a ở mức 5,0% và 4,5%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan, Xin-ga-po được dự báo thấp hơn từ 2,3 đến 2,5 lần so với Việt Nam và Phi-li-pin, lần lượt đạt 2,6% và 2,4%.

Các tổ chức quốc tế đều nhận định tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 cao hơn năm 2023 từ 0,9-1,1 điểm phần trăm. Cụ thể, ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 ở mức 6,0% so với nhận định trong tháng 4/2024. IMF và WB nhận định khả quan hơn khi cho rằng tăng trưởng của Việt Nam đạt 6,1% trong năm 2024, tăng lần lượt 0,3 và 0,6 điểm phần trăm so với dự báo của hai tổ chức này trong tháng 4 và tháng 6/2024.

Trong 9 tháng năm 2024, các cấp, các ngành đã tập trung triển quyết liệt khai các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ và cơ bản đảm bảo tiến độ như: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội, số doanh nghiệp thành lập mới, kim ngạch xuất nhập khẩu, tổng lượng khách du lịch, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, sản lượng ngành công nghiệp chủ yếu,… Các chế độ, chính sách về an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; cơ sở vật chất giáo dục được quan tâm, đầu tư; tình hình dịch bệnh tương đối ổn định, kiểm soát tốt; cải cách thủ tục hành chính đạt được nhiều kết quả tích cực; công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp được triển khai quyết liệt; kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Nhờ vào những nỗ lực đó, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 đã đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể ở các ngành, lĩnh vực như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

1.1. Tăng trưởng toàn nền kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) (theo giá so sánh 2010) quý III/2024 ước tính tăng 7,91% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản tăng 5,63%; khu vực Công nghiệp và Xây dựng tăng 11,80%; khu vực Dịch vụ tăng 6,24%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,31%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, Tổng sản phẩm trên địa bàn (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 13.077 tỷ đồng, tăng 7,34% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,45%; quý II tăng 6,38%; 6 tháng đầu năm tăng 6,47%; quý III tăng 7,91%). Trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản tăng 5,54%; Khu vực Công nghiệp và Xây dựng tăng 11,02% (trong đó Công nghiệp tăng 12,90%); Khu vực Dịch vụ tăng 5,87%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,38%.

1.2. Quy mô và cơ cấu nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế tỉnh Kon Tum 9 tháng năm 2024 theo giá hiện hành ước tính đạt 25.548 tỷ đồng, trong đó: Khu vực Nông - Lâm - Thuỷ sản, chiếm 12,51%; khu vực Công nghiệp - Xây dựng chiếm 36,13%; khu vực Dịch vụ chiếm 43,07%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,29% (cơ cấu tương ứng  cùng kỳ năm 2023 là 12,24%; 35,15%; 44,23%; 8,38%). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.

2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

2.1. Thu, chi ngân sách

Về thu ngân sách: Ước thực hiện 9 tháng năm 2024 thu 2.350 tỷ đồng đạt 72,2% dự toán Trung ương và đạt 51,1% dự toán địa phương giao, tăng 7,1% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa 2.120 tỷ đồng đạt 49,3% so với dự toán địa phương giao (thu nội địa trừ tiền sử dụng đất và XSKT, số thu còn lại 1.821 tỷ đồng, đạt 73,6% dự toán), ước thu xuất nhập khẩu 229 tỷ đồng đạt 77,6% so với dự toán.

Về chi ngân sách: Ước thực hiện 9 tháng năm 2024 là 7.475 tỷ đồng, đạt 51,2% so với nhiệm vụ chi, tăng 16,3% so cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ nguồn thực hiện cải cách tiền lương chưa thực hiện và nguồn dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao tăng thu từ các dự án khai thác quỹ đất do chưa phát sinh số thu, đạt 60,7%).

2.2. Hoạt động ngân hàng[2]

(1)Tình hình thực hiện lãi suất

Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tỉnh chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên địa bàn áp dụng mức lãi suất như sau:

* Lãi suất huy động bằng VNĐ: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng : ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 3,0-4,0%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,0-5,0%/năm.

* Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 9,0-12,0%/năm.

(2) Hoạt động huy động vốn

Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tỉnh tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn.

Đến ngày 30/9/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn tỉnh ước đạt 23.000 tỷ đồng, giảm 0,1% (-24 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.650 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,2% tổng nguồn vốn huy động, tăng 0,8% (+14 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

 (3) Hoạt động tín dụng

Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn tỉnh.

Đến ngày 30/9/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn tỉnh ước đạt 47.850 tỷ đồng, tăng 2,9% (+1.338 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:

- Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 29.930 tỷ đồng, chiếm 62,5% tổng dư nợ, tăng 4,5% (+1.286 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.920 tỷ đồng, chiếm 37,5% tổng dư nợ, tăng 0,3% (+52 tỷ đồng) so với đầu năm.

- Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.150 tỷ đồng, chiếm 31,7% tổng dư nợ, tăng 1,5% (+229 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 54 tỷ đồng, chiếm 0,1% tổng dư nợ, tăng 1,2% (+0,6 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 32.642 tỷ đồng, chiếm 68,2% tổng dư nợ, tăng 3,5% (+1.106 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 4,0 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.

3. Giá, lạm phát

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Trong thời gian nửa đầu tháng 9, các tỉnh phía Bắc chịu ảnh hưởng nặng nề cơn bão số 3, song giá cả thị trường ở địa phương vẫn ổn định, không có biến động lớn về giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và dịch vụ, không có hiện tượng ghim hàng tăng giá hoặc lợi dụng ảnh hưởng bão để tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2024 tăng 0,24% so với tháng trước; tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,19% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 9 tháng  năm 2024, CPI tăng 2,45% so với cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,24% (khu vực thành thị tăng 0,27%; khu vực nông thôn tăng 0,21%).

Trong mức tăng 0,24% của CPI tháng 9/2024 so với tháng trước, có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 03 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

(1) Tám nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,28%)

+ Lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,5%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,5% (giá gạo tẻ thường tăng 0,55%, giá gạo tẻ ngon tăng 0,16%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng; nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 2,44%, trong đó giá ngô tăng 2,17%, giá khoai lang tăng 4,46%, nguyên nhân là do sản phẩm trái vụ.

+ Thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,33%, chủ yếu là do nhóm thịt gia cầm tăng 0,23%, trong đó giá thịt gà tăng 0,23%, giá thịt gia cầm khác tăng 0,3%. Nhóm trứng các loại tăng 0,32%, trong đó giá trứng đã chế biến tăng 0,55%. Nhóm thủy sản tươi sống tăng 0,71% là do nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,49%, nhóm thủy hải sản tươi sống khác tăng 0,48%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung giảm nên làm cho giá tăng.

Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 0,75%, trong đó giá đỗ quả tươi tăng 1,24%, giá rau tươi khác tăng 3,85%, giá rau của đông lạnh tăng 1,11%. Ở chiều ngược lại, giá cà chua giảm 3,68%, giá măng tươi giảm 0,46%, nguyên nhân là do các sản phẩm đang mùa thu hoạch. Nhóm quả tươi, chế biến tăng 0,42%, trong đó giá xoài tăng 1,72%, giá quả có múi tăng 0,34%, giá quả tươi khác tăng 0,6%.

Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,32% là do giá sữa đậu nành, sữa ngô tăng 0,27%, giá sữa bột người lớn tăng 0,34%; nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 0,53%, trong đó giá cà phê bột tăng 3,18%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng.

- Đồ uống và thuốc lá (+0,09%)

 Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09%, là do giá bia các loại tăng 0,35%, trong đó bia lon tăng 0,39%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng và giá các tháng trước giảm.

 - May mặc, mũ nón và giày dép (+0,55%)

Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,55%, là do nhóm quần áo may sẵn tăng 0,69%, trong đó giá quần áo cho nam (13 tuổi trở lên) tăng 0,55%, giá quần áo cho trẻ em gái (từ 2 đến dưới 13 tuổi trở lên) tăng 1,97%; nhóm may mặc khác tăng 0,84%, trong đó giá khăn mặt, khăn quàng tăng 1,28%; nhóm mũ nón tăng 1,01%. Nguyên nhân chính là do nhu cầu mua sắm tăng nên giá tăng theo theo quy luật cung cầu.

- Nhà ở và vật liệu xây dựng (+0,94%)

 Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,94%,  nguyên nhân chính là do nhóm nhà ở thuê tăng 0,9%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 0,86%; giá gas tăng 1,62%, tăng 7000 đồng/12kg từ ngày 01/9/2024; giá điện sinh hoạt tăng 0,78% (do nhu cầu tiêu dùng tăng nên giá bình quân tăng). Ở chiều ngược lại giá nước sinh hoạt giảm 0,37% là do trong tháng mưa nhiều nên nhu cầu tiêu dùng nước giảm; giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước giảm 7,24%.

- Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,78%)

Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,78%, tăng chủ yếu là do giá giường, tủ, bàn ghế tăng 1,52%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 0,66%, trong đó giá đồ nhôm, inox tăng 2,22%; giá hàng thủy tinh, sành sứ tăng 1,34%, trong đó giá bát, đĩa tăng 2,09%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 1,22%, trong đó giá dầu gội đầu tăng 3,16%; giá sửa chữa thiết bị gia đình tăng 0,57%, trong đó giá sửa chữa thiết bị có động cơ tăng 1,2%.

- Thuốc và dịch vụ y tế (+0,09%)

 Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,09%, là do giá thuốc các loại tăng 0,54%, trong đó giá thuốc giảm đau, hạ sốt tăng 0,75%,  giá thuốc chống dị ứng tăng 0,18%, giá vitamin và khoáng chất tăng 3,47%.

- Giáo dục (+4,08%)

 Chỉ số nhóm giáo dục tăng 4,08% là do nhóm dịch vụ giáo dục tăng 5,31%, nguyên nhân chính là do học phí đại học tăng 13%.

- Hàng hóa và dịch vụ khác (+0,46%)

Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,46%, tăng chủ yếu là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 1,13%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 1,97%, giá đồ trang sức tăng 2,12% là do tăng theo giá vàng.

(2) Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:

- Giao thông (-3,3%)

Chỉ số nhóm giao thông giảm 3,3%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu giảm 7,28%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước giá xăng giảm 7,35%, giá dầu diezel giảm 8,73%; giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 1,5%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 14,66%.

- Bưu chính viễn thông (-0,39%)

Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,39%, là do nhóm thiết bị điện thoại giảm 1,11%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 3,31%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động thế hệ cũ.

 - Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,14%)

 Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,14% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,69%, trong đó giá ti vi màu giảm 0,72%; giá cây, hoa cảnh giảm 0,85%, là do lượng cung tăng.

So với tháng 9/2023, CPI tháng 9/2024 tăng 2,44%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 08 nhóm tăng giá và 03 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,36%, tăng chủ yếu là do nhóm lương thực tăng 8,49%, trong đó giá gạo tăng 12,22% là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng, nhóm thực phẩm tăng 1,83%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,0%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 4,17%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,58%, tăng chủ yếu là do giá gas tăng 7,5%, điện sinh hoạt tăng 4,04%, riêng giá dầu hỏa giảm 21,67%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,01%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,4%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng 11,81%; nhóm giáo dục tăng 5,01% là do học phí đại học tăng; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,2% là do giá bảo hiểm y tế tăng 30%.

Các nhóm giảm là nhóm giao thông giảm 7,28% là do giá xăng giảm 18,75%, giá dầu diesel giảm 23,74%;  nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,58%, giảm chủ yếu là do mặt hàng điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,21%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2024 tăng 2,45% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng giá:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,03%, trong đó giá lương thực tăng 10,33% (giá gạo tăng 14,71% do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng); giá bột mì và ngũ cốc khác tăng 7,36%; giá thủy sản tươi sống tăng 2,56%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,83%; giá các loại đậu và hạt tăng 5,37%; giá đường, mật tăng 6,01%; giá sữa, bơ, pho mai tăng 3,48%; giá chè, cà phê, ca cao tăng 3,69%, trong đó cà phê bột tăng 18,23% do ảnh hưởng giá xuất khẩu tăng. Ở chiều ngược lại, giá thịt gia súc giảm 0,91% (riêng giá thịt lợn giảm 1,34%); giá trứng các loại giảm 1,11%; giá dầu mỡ và chất béo khác giảm 2,05%; giá quả tươi và chế biến giảm 0,86%.

- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,53%, là do giá thuốc hút tăng 2,08%; giá rượu bia tăng 3,38%, trong đó giá rượu tăng 4,81%, giá bia tăng 2,51%, là do nhu cầu tiêu dùng trong các dịp Lễ, Tết Nguyên đán tăng.

- Nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 3,42%, trong đó giá vải các loại tăng 3,37%, giá quần áo may sẵn tăng 3,23%, giá giầy dép tăng 3,55%, dịch vụ may mặc tăng 1,7% là do nhu cầu tiêu dùng tăng cao thời điểm Tết Nguyên đán, các dịp nghỉ Lễ đầu năm và mua sắm trang phục cho học sinh chuẩn bị đón năm học mới.

- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,1%, tăng chủ yếu là do giá nhà ở thuê tăng 6,62%, do các năm trước có giảm giá để hỗ trợ ảnh hưởng dịch COVID-19 nay giá tăng ổn định trở lại; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,11%; giá điện sinh hoạt tăng 6,36% là do ảnh hưởng điều chỉnh tăng giá điện sinh hoạt.

- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,22% là do giá đồ điện tăng 2,46%; giá giường, tủ, bàn ghế tăng 1,92%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 1,25%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 2,03%; giá dịch vụ trong gia đình tăng 8,9%; giá vật phẩm tiêu dùng khác tăng 2,35%. Ở chiều ngược lại giá tủ lạnh giảm 4,14%, giá máy giặt giảm 1,43%.

- Nhóm thuốc và thiết bị y tế tăng 9,98%, chủ yếu là do giá dịch vụ y tế tăng 11,52%; giá thuốc các loại tăng 3,93%; giá dụng cụ y tế tăng 1,64%.

- Nhóm giao thông tăng 1,02%, chủ yếu là do giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 15,57% là do tăng giá vé các dịp Lễ, Tết vận chuyển hành khách bằng các loại phương tiện để bù chiều vắng hoặc ít khách; giá phụ tùng tăng 8,2%. Ở chiều ngược lại, giá nhiên liệu giảm 0,49%, trong đó giá xăng giảm 0,51%, giá dầu dizel giảm 1,3%.

- Nhóm giáo dục tăng 1,68%, trong đó giá các loại văn phòng phẩm tăng 4,14%  là do giá sản phẩm từ giấy tăng 10,58%; giá dịch vụ giáo dục tăng 0,97% là do giá học phí đại học tăng.

- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,64%, tăng chủ yếu là do giá đồ dùng cá nhân tăng 7,13%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 9,93%, giá đồ trang sức tăng 22,03% do tăng theo giá vàng; nhóm dịch vụ khác tăng 18,17%, trong đó giá bảo hiểm y tế tăng 23,52%.

Các nhóm hàng giảm giá:

- Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 5,49% là do giá các loại điện thoại di động thế hệ cũ giảm 14,97%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 20,89%.

 - Nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 2,45%, giảm chủ yếu là do giá thiết bị văn hóa giảm 12,49%, trong đó giá tivi màu giảm 12,49%. Ở chiều ngược lại, nhóm khách sạn nhà hàng tăng 5,37%, trong đó giá khách sạn tăng 4,38%.

3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh

(1) Chỉ số giá vàng (+1,75%)

Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 9/2024 tăng 1,75% so với tháng trước; tăng 10,92% so với tháng 12/2023; tăng 19,39% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 20,29%.

(2) Chỉ số giá đô la Mỹ (-1,63%)

Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 9/2024 giao dịch bình quân quanh mức 24.903 VND/USD, giảm 1,63% so với tháng trước; tăng 1,72% so với tháng 12/2023; tăng 2,31% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 5,28%.

3.3. Chỉ số giá sản xuất

Giá sản xuất (nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp) trên địa bàn tỉnh luôn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như nhu cầu thị trường; giá nguyên liệu đầu vào; mùa vụ sản xuất; tình hình lưu thông hàng hóa; tình hình xuất nhập khẩu cũng như các chính sách điều hành kinh tế của Nhà nước... Trong 9 tháng  năm 2024 cùng với việc các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chủ động tốt nguyên liệu đầu vào, bên cạnh đó việc lưu thông hàng hoá ở các vùng miền và trên địa bàn tỉnh đến nay tương đối thuận lợi, diễn biến thời tiết cũng đang thuận lợi cho sản xuất. Tuy vậy, tình hình biến động giá sản xuất (nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp) vẫn có những biến động đáng kể so với quý trước, cụ thể như sau:

  1. Giá sản xuất nông lâm thuỷ sản.

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản Quý III/2024 tăng 15,57% so với quý II/2024 và tăng 7,84% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 0,24% và tăng 4,4%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan giảm 0,12% và tăng 1,34%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 0,14% và tăng 1,57%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,55% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 10,18%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,42%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 2,51%.

b) Giá sản xuất công nghiệp

Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý III năm 2024 tăng 0,46% so với quý II/2024 và tăng 8,05% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chỉ số giá sản phẩm thuộc nhóm ngành khai khoáng tăng 2,21% và tăng 7,50%; nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo giảm 1,46% và tăng 1,24%; nhóm ngành điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,64% và tăng 8,82%; nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,49% và giảm 0,04%.

 Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số giá sản xuất công nghiệp tăng 6,24% so với cùng kỳ năm 2023 (Quý I tăng 5,91%; Quý II tăng 4,79%, quý III tăng 8,05% so với cùng kỳ năm 2023), trong đó: nhóm ngành khai khoáng tăng 7,09%; nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,47%; nhóm ngành điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 6,62%; nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,13%.

4. Đầu tư và xây dựng

Hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh trong 9 tháng  năm 2024 cơ bản được duy trì ổn định, có sự tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng  năm 2024 ước tính tăng 26,14% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế.

4.1. Vốn đầu tư

a) Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn

Ước tính vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum quý III năm 2024 là 7.460,75 tỷ đồng, tăng 23,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 1.623,86 tỷ đồng, tăng 0,64% so với cùng kỳ và chiếm 21,76% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 5.832,33 tỷ đồng, tăng 31,54% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 78,17% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 4,56 tỷ đồng, chiếm 0,06% trong tổng nguồn vốn.

Ước tính vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2024 là 20.930 tỷ đồng, tăng 26,14% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm:

- Vốn Nhà nước trên địa bàn thực hiện là 3.959,45 tỷ đồng, tăng 4,08% so với cùng kỳ và chiếm 18,91% trong tổng số nguồn vốn, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước do trung ương quản lý là 1.319,78 tỷ đồng, nguồn vốn Nhà nước do địa phương quản lý là 2.639,68 tỷ đồng, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, môi trường nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn...

- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài Nhà nước là 16.957,53 tỷ đồng tăng 34,74% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 81,01% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là: 8.770,90 tỷ đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 8.186,64 tỷ đồng chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, trồng trọt...

- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 13,19 tỷ đồng, chiếm 0,06% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Phân theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư XDCB: 15.051,36 tỷ đồng, chiếm 71,91% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư mua sắm TSCĐ dùng cho sản xuất không qua XDCB:  4.168,38 tỷ đồng, chiếm 19,92% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp TSCĐ: 985,61 tỷ đồng, chiếm 4,71% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động: 469,28 tỷ đồng, chiếm 2,24% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư khác: 0,73 tỷ đồng.

b) Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn 9 tháng  năm 2024

Ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum 9 tháng  năm 2024 là 2.528 tỷ đồng tăng 9,19% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:

Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước là 1.588 tỷ đồng tăng 6,59% so với cùng kỳ và chiếm 62,80% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, môi trường nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn...  Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách tỉnh là 905,21 tỷ đồng, chiếm 57,01%; Vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 589,53 tỷ đồng, chiếm 37,13%; Vốn ODA là 25,74 tỷ đồng, chiếm 1,62%; Vốn Xổ số kiến thiết là 67,24 tỷ đồng, chiếm 4,23%.

Vốn Ngân sách Nhà nước cấp huyện là 940 tỷ đồng, tăng 13,87% so với cùng kỳ và chiếm 37,20% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa… trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách huyện là 371,48 tỷ  đồng chiếm 39,50%; Vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 568,89 tỷ đồng, chiếm 60,50%.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp xã không phát sinh.

Trong 9 tháng năm 2024 nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cải tạo nâng cấp các tuyến đường giao thông, kiên cố hóa các kênh mương, công trình cấp nước sinh hoạt; công trình giáo dục; y tế… Tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do các Sở, ban ngành trên địa bàn tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư.

4.2. Xây dựng

Ngay từ đầu năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Quyết định số 24/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2024 về Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các chủ đầu tư tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các dự án hạ tầng quy mô lớn, dự án trọng điểm, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất rừng, đất lúa, bảo đảm nguồn cung và kiểm soát giá nguyên vật liệu; hướng dẫn các chủ đầu tư trong quá trình quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ triển khai thi công các dự án trọng điểm của tỉnh. Những tháng đầu năm, tranh thủ thời tiết thuận lợi các hộ dân cư cũng tiến hành khởi công xây dựng nhà ở, nhà hàng, nhà nghỉ, sửa chữa nhà ở và các công trình liên quan (sân, tường rào, nhà kho, các công trình khác…); các đơn vị xã, phường, thị trấn cùng Nhân dân thực hiện thi công các công trình nhà văn hóa, nhà rông, hội trường, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, bê tông hóa các đường liên thôn, liên xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới...

Giá trị sản xuất quý III năm 2024 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum (theo giá hiện hành) ước đạt 5.406,43 tỷ đồng, tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024 giá trị sản xuất ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành đạt 14.816,74 tỷ đồng, tăng 8,87% so với cùng kỳ năm trước.

- Giá trị sản xuất chia theo loại hình sở hữu: Doanh nghiệp nhà nước đạt 585,88 tỷ đồng, tăng 54,23% so với cùng kỳ năm trước; Doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 10.149,68 tỷ đồng, tăng 8,08% so với cùng kỳ năm trước;  Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,03 tỷ đồng, giảm 50,63% so với cùng kỳ năm trước; Các loại hình khác (Hộ dân cư và xã/phường/thị trấn) đạt 4.080,16 tỷ đồng, tăng 6,36% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Xã, phường/thị trấn đạt 35,56 tỷ đồng, giảm 1,54%; Hộ dân cư đạt 4.044,60 tỷ đồng, tăng 6,44% so với cùng kỳ năm trước.

-  Giá trị sản xuất chia theo loại công trình: Công trình nhà ở đạt 3.906,69 tỷ đồng, chiếm 26,37% trong tổng số và tăng 1,67% so với cùng kỳ năm trước; Công trình nhà không để ở đạt 707,78 tỷ đồng, chiếm 4,78% trong tổng số và tăng 8,31% so với cùng kỳ năm trước; Công trình kỹ thuật dân dụng đạt 9.977,64 tỷ đồng, chiếm 67,34% trong tổng số và tăng 12,04% so với cùng kỳ năm trước;  Hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 224,63 tỷ đồng, chiếm 1,52% trong tổng số và tăng 7,98% so với cùng kỳ năm trước.

Công trình trọng điểm thực hiện trong kỳ

Trong 9 tháng năm 2024, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai thi công các công trình trọng điểm chuyển tiếp từ năm 2023, đồng thời các công trình mới có vốn đầu tư cao như:

- Công trình kỹ thuật dân dụng: Đường trục chính phía Tây thành phố Kon Tum; Đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum với các huyện Sơn Tây, Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Mở rộng, nâng cấp đường Trường Chinh, thành phố Kon Tum; Kè chống sạt lở dọc sông Đăk Bla; các công trình chỉnh trang đô thị thành phố Kon Tum (cải tạo vỉa hè, hệ thống thoát nước, mặt đường... ở các tuyến đường chính nội thành gồm Lê Hồng Phong, Nguyễn Huệ, Phan Chu Trinh, Ngô Quyền và U Re); Khai thác quỹ đất phát triển kết cấu hạ tầng Đường bao khu dân cư phía Nam thành phố Kon Tum (đoạn từ đường Hồ Chí Minh đến cầu treo Kon Klor); Đường giao thông từ xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy đi huyện Kbang tỉnh Gia Lai; Nâng cấp tuyến đường Đăk Man - Đăk Blô huyện Đăk Glei; Đường từ trung tâm huyện Sa Thầy đi Nhà máy thủy điện Ialy; Xây dựng cầu và đường hai đầu cầu từ bến du lịch xã Ia Chim, thành phố Kon Tum (Tỉnh lộ 671) đến đường giao thông kết nối với Tỉnh lộ 675A xã Ya Ly huyện Sa Thầy; cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 675 đoạn từ Km0 – Km24; Sửa chữa nâng cấp hệ thống tưới hồ chứa Đăk Car và đập Đăk Sia II huyện Sa Thầy,... Các dự án phát triển hạ tầng tại khu vực khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen: dự án Đường từ Quốc lộ 24 đi khu nghỉ dưỡng khu vực Đông Nam; dự án đường từ trung tâm huyện Kon Plông kết nối đường Đông Trường Sơn; nâng cấp, mở rộng đường Trần Hưng Đạo thị trấn Măng Đen... Công trình thủy điện: Dự án Nhà máy Thủy điện Ialy mở rộng; Thủy điện Plei kần hạ; Thủy điện Nước Long 1, Thủy điện Đăk Mi, Thủy điện Thượng Nam Vao...

- Công trình nhà không để ở: Nhà thi đấu tổng hợp tỉnh Kon Tum; Trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành và các hạng mục phụ trợ; Trụ sở làm việc các đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh; Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum; Trụ sở Công an tỉnh Kon Tum; Trụ sở Công an huyện Kon Plong; Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tỉnh Kon Tum; Khách sạn Đăk Blà; Sửa chữa nâng cấp trường Cao đẳng Kon Tum...

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

5.1.Tình hình đăng ký doanh nghiệp[3]

Tháng 9 năm 2024 (tính đến ngày 20/9/2024) toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 154 tỷ đồng, giảm 33,33% về số doanh nghiệp và tăng 46,98% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 01 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 03 doanh nghiệp đã giải thể; 04 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.

Tính chung 9 tháng năm 2024 (tính đến ngày 20/9/2024) có 216 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 1,41% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 1.697 tỷ đồng, giảm 31,47% so với cùng kỳ. Có 50 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 36,71% so với cùng kỳ năm trước; 130 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 124,14% so với cùng kỳ năm trước; 183 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 30,71% so với cùng kỳ năm trước.

5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

(1) Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo quý III năm 2024: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Quý III năm 2024 nhìn chung tương đối thuận lợi, phần lớn các doanh nghiệp đã vượt qua giai đoạn khó khăn, có 42,42% đơn vị có đánh giá tình hình tốt hơn quý trước; 36,36% đánh giá giữ nguyên và chỉ còn 21,21% đơn vị đánh giá tình hình có khó khăn hơn so với quý trước. Trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp đều dự báo tình hình sản xuất sẽ tốt hơn, cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất tốt hơn chiếm đến 60,61%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 27,27%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất khó khăn hơn chỉ còn 12,12%.

 (2) Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng quý III năm 2024: Nhìn chung tương đối ổn định, trong đó số doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn chiếm 44,9%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn là các doanh nghiệp đang có công trình lớn trên địa bàn thực hiện chuyển tiếp của năm 2023 và các doanh nghiệp có khởi công công trình mới trong kỳ, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình trong các tháng cuối năm 2024. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh không thay đổi chiếm 53,1%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn chiếm tỷ lệ 2%; chủ yếu là những doanh nghiệp ít công trình chuyển tiếp từ năm 2023 và chưa có nhiều hợp đồng mới năm 2024.

Nhận định về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất ngành xây dựng thuận lợi hơn so với quý trước, do bắt đầu triển khai nhiều công trình mới, thời điểm cuối năm đẩy nhanh tiến độ các công trình đang thi công. Tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động xây dựng thuận lợi hơn chiếm 59,2%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất không đổi chiếm tỷ lệ 36,7%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất khó khăn hơn chiếm 4,1%.

Các đơn vị doanh nghiệp xây dựng đánh giá tổng thể về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo dựa trên cơ sở nhiều yếu tố có liên quan. Trong đó, tổng chi phí cho hoạt động xây dựng là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quý tiếp theo có 98% số doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí không đổi hoặc tăng lên so với quý trước (trong đó số doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí tăng lên chiếm 65,3%), tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá chi mua nguyên vật liệu xây dựng không đổi hoặc tăng lên chiếm 98% và 100% doanh nghiệp đánh giá chi phí nhân công không đổi hoặc tăng lên. Các doanh nghiệp đánh giá mức chi phí giảm xuống chủ yếu là những doanh nghiệp đang gặp khó khăn về nguồn lực nên chưa nhận được hợp đồng mới.

Về tình hình sử dụng lao động: trong quý tiếp theo có 51% số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động tăng hơn so với quý trước. Doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên tăng chiếm 18,4% và nhận định lao động thời vụ tăng chiếm 53,1%. Số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động không thay đổi so với quý trước chiếm tỷ lệ 47%; tỷ lệ doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên không thay đổi chiếm 81,6% và số doanh nghiệp nhận định lao động thời vụ không thay đổi chiếm 42,8%. Có 2% doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động giảm, trong đó tỷ lệ doanh nghiệp doanh nghiệp có lao động thời vụ giảm chiếm 4,1%.

Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý III năm 2024 là giá nguyên vật liệu tăng cao, điều kiện thời tiết không thuận lợi, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế, thiếu nguồn cung về nguyên vật liệu, không có hợp đồng xây dựng mới. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong quý tiếp theo nhiều nhất là giá nguyên vật liệu tăng cao (chiếm 59,2%), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế (chiếm 34,7%), công tác giải phóng mặt bằng chậm (chiếm 28,6%), thiếu nguồn cung nguyên vật liệu xây dựng (chiếm 26,5%), điều kiện thời tiết không thuận lợi (chiếm 26,5%). Về mong muốn được nhận hỗ trợ của doanh nghiệp: 44,9% doanh nghiệp muốn được hỗ trợ nguyên vật liệu; 44,9% doanh nghiệp muốn được hỗ trợ vay vốn; 32,7% doanh nghiệp cần được bàn giao mặt bằng đúng tiến độ; 18,4% doanh nghiệp mong muốn thông tin đấu thầu công khai, minh bạch; 16,3% doanh nghiệp mong muốn cắt giảm thủ tục hành chính.

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

6.1. Nông nghiệp

6.1.1. Trồng trọt

a) Kết quả sản xuất cây hàng năm vụ đông xuân năm 2023-2024.

Nhìn chung, vụ Đông xuân năm nay thời tiết khô hanh, ít mưa, nắng nóng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, ao, hồ giảm. Các công trình hồ, đập thủy lợi cung cấp nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mức nước cũng giảm dần. Vì vậy, các sở, ngành đã kịp thời hướng dẫn các địa phương chú trọng đảm bảo nguồn nước tưới tiêu nên năng suất của các loại cây trồng tương đối ổn định. Bên cạnh đó, thời tiết nắng nóng cũng gây ra một số loài sâu bệnh hại phát triển nhanh chóng, như: bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu,... nhờ sự chỉ đạo kịp thời của ngành Nông nghiệp mà các ổ bệnh được xử lý nhanh chóng, kịp thời.

Tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ Đông xuân 2023 - 2024 trên địa bàn tỉnh gieo trồng được 10.344 ha, tăng 1,06% (+ 108,16 ha) so với vụ Đông xuân năm trước. Cụ thể, diện tích, năng suất, sản lượng cây hàng năm vụ Đông xuân 2023 – 2024 so với vụ Đông xuân năm trước như sau:

(1) Cây lương thực có hạt: Cây lương thực có hạt gieo trồng được 7.992 ha, giảm 1,43% (-116,06 ha), trong đó: Cây lúa gieo trồng được 7.229 ha, giảm 0,89% (-64,9 ha). Năng suất lúa đạt 51,5 tạ/ha, tăng 2,63%; sản lượng lúa đạt 37.228 tấn, tăng 1,72% (+ 628,58 tấn); Cây ngô gieo trồng được 764 ha, giảm 6,28% (-51,2 ha). Năng suất tăng, đạt 39,57 tạ/ha, tăng 1,63%; sản lượng ngô đạt 3.022 tấn, giảm 4,76% (-151,07 tấn), sản lượng giảm do DTGT giảm.

(2) Cây lấy củ có chất bột: Cây lấy củ có chất bột gieo trồng được 67 ha, giảm 19,25% (-15,9 ha), trong đó: Cây khoai lang gieo trồng được 65 ha, tăng 14,31% (+8,1 ha). Năng suất đạt 120,3 tạ/ha, tăng 0,84%; sản lượng đạt 778 tấn, tăng 15,27% (+103,1 tấn), sản lượng tăng do diện tích gieo trồng và năng suất tăng; Khoai môn gieo trồng được 2 ha bằng với vụ Đông xuân năm trước. Năng suất đạt 55 tạ/ha; sản lượng đạt 11 tấn, tăng 0,92%.

(3) Cây có hạt chứa dầu: Cây có hạt chứa dầu gieo trồng được 36 ha, tăng 2,57% (+0,9 ha). Trong đó: Cây đậu tương gieo trồng được 3 ha bằng với vụ Đông xuân năm trước. Năng suất đạt 11 tạ/ha, tăng 1,85%; sản lượng đạt 2,97 tấn, tăng 1,71% (+0,05 tấn); Cây lạc gieo trồng được 33 ha, tăng 2,78% (+0,9 ha). Năng suất đạt 17,5 tạ/ha, tăng 1,74%; sản lượng đạt: 58 tấn, tăng 4,57% (+ 2,54 tấn) là do diện tích và năng suất tăng nên sản lượng tăng.

(4) Cây rau, đậu các loại và hoa: Cây rau, đậu các loại và hoa gieo trồng được 1.802 ha, tăng 10,81% (+175,82 ha). Trong đó: Rau các loại gieo trồng được 1.565 ha, tăng 9,45% (+135,07 ha). Năng suất đạt 134,27 tạ/ha, tăng 0,89%; sản lượng đạt 21.010 tấn, tăng 10,42% (+1.982,27 tấn) là do diện tích tăng nên sản lượng tăng; Đậu các loại gieo trồng được 148 ha, tăng 37,07% (+40,05 ha). Năng suất đạt 16,98 tạ/ha, tăng 1,22%; sản lượng đạt 252 tấn, tăng 38,73% (+70,23 tấn), sản lượng tăng do diện tích và năng suất tăng.

 

(5) Cây hàng năm khác: Cây hàng năm khác gieo trồng được 447 ha, tăng 16,51% (+63,4 ha), trong đó: Cây gia vị hàng năm gieo trồng được 55 ha, tăng 14,12% (+6,8 ha).

b) Tình hình sản xuất cây hàng năm vụ mùa năm 2024

Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa 2024

Ước tính đến ngày 20/9/2024, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ mùa 2024 tỉnh Kon Tum đạt 65.549 ha, giảm 0,4% (- 257,1 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể DTGT một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:

- Cây lúa DTGT: 15.171 ha, giảm 1,7% (-265,7 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây lúa ruộng: 12.728 ha, tăng 1%; Cây lúa rẫy: 2.443 ha, giảm 13,7%. Diện tích cây lúa rẫy giảm chủ yếu ở huyện Đắk Glei, Tu Mơ Rông là do năng suất và hiệu quả kinh tế không cao nên người dân chuyển sang các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn như cây dược liệu, cây ăn quả… Hiện nay cây lúa trên địa bàn tỉnh phát triển tốt, ít sâu bệnh, đang trong thời kỳ đẻ nhánh.

- Cây ngô DTGT: 3.668 ha, giảm 13,1% (-553,7 ha). Diện tích gieo trồng giảm chủ yếu ở Thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông, do người dân chuyển đổi sang trồng cây khác như cây mía, sắn.

- Cây sắn DTGT: 39.997 ha, tăng 1,8%  (+713,3 ha).

- Cây mía gieo trồng được 1.521 ha, tăng 24,8% (+ 301,8 ha). Diện tích mía tăng là do nhà máy đường kết hợp với người dân khôi phục lại diện tích mía đã bỏ trống từ các năm trước, bên cạnh đó thực hiện theo kế hoạch của UBND tỉnh phát triển vùng nguyên liệu mía đến hết năm 2024 là 2.000 ha nên các tổ chức, cá nhân và nhà máy đường đã ký kết hợp đồng mở rộng DTGT mía.

- Khoai lang DTGT: 640 ha, tăng 1,7% (+10,8 ha). Diện tích tăng là do một số doanh nghiệp và người dân trồng xen khoai lang trên đất cao su và cà phê.

- Rau các loại DTGT: 1.702 ha, tăng 6,5% (+104,3 ha). Diện tích tăng là do nhu cầu thị trường tăng nên người dân và doanh nghiệp mở rộng diện tích gieo trồng.

- Đậu các loại DTGT: 332 ha, giảm 6,2% (-22,2 ha). Diện tích giảm chủ yếu ở huyện Đắk Hà, do người dân giảm diện tích trồng xen trong vườn tạp canh.

- Hoa các loại DTGT: 79 ha, giảm 31,6% (-36,3 ha). Diện tích giảm là do năm trước người dân đầu tư, chăm sóc nhiều nhưng lợi nhuận không cao nên năm nay chuyển qua trồng các loại cây khác như rau các loại.

c) Cây lâu năm

Ước tính đến thời điểm 30/9/2024 tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh Kon Tum là 135.088 ha, tăng 7,49% (+9.408,1 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Diện tích cây ăn quả hiện là 15.855 ha, tăng 43,78% (+4.827,8 ha) so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là tăng một số loại cây như: Diện tích cây chuối 2.600,5 ha, tăng 47,1% (+832,4 ha), diện tích sầu riêng 3.516 ha, tăng 82,72% (+1.591,7 ha), diện tích mít 1.187,9 ha, tăng 30,56% (+246,8 ha), diện tích cam 999,1 ha, tăng 13,5% (+119,1 ha). Diện tích cây ăn quả tăng cao so với cùng kỳ năm trước là do các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại như cam, bưởi, chôm chôm ở những vùng sinh thái phù hợp; đồng thời, thực hiện chủ trương của tỉnh về phát triển cây ăn quả trên địa bàn, ngành Nông nghiệp tỉnh đã tăng cường chỉ đạo các địa phương xây dựng kế hoạch, triển khai trồng mới các loại cây ăn quả phù hợp với thổ nhưỡng trên địa bàn, đặc biệt là cây mắc ca, sầu riêng, mít,...

- Về sản lượng: Ước sản lượng xoài 1.268 tấn, tăng 2,7% (+33 tấn); chuối ước sản lượng 12.285 tấn, tăng 7,9% (+903 tấn); sầu riêng ước sản lượng 1.295 tấn, tăng 9,75% (+115 tấn); mít ước sản lượng 1.782 tấn, tăng 9,73% (+158 tấn); cam ước sản lượng 3.004 tấn, tăng 7,1% (+202 tấn); bưởi ước sản lượng 328 tấn, tăng 6,8% (+21 tấn).

- Diện tích cây cà phê hiện có 30.922 ha, tăng 4,8% (+1.424,5 ha); Diện tích cây cao su hiện có 80.095 ha, tăng 2,1% (+1.630 ha).

Trên địa bàn tỉnh Kon Tum, cây trồng trọng điểm là cây cao su và cây cà phê. Hiện tại cây cà phê trong giai đoạn sinh trưởng. Sản lượng cao su ước đến 30/9/2024 đạt 49.270 tấn, tăng 5,8% (+2.720 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thu hoạch tăng là do giá bán mủ cao su năm nay ổn định hơn năm trước nên đã khuyến khích người dân tăng cường đầu tư khai thác.

1.1.2. Chăn nuôi

Ngành chăn nuôi tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh trên động vật, quản lý chặt chẽ tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, tổ chức tiêm  vắc-xin phòng bệnh cho động vật, đặc biệt là bệnh nguy hiểm trên đàn vật nuôi, như: cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục.... Tuyên truyền, hướng  dẫn người dân tuân thủ quy trình thú y, chăn nuôi an toàn sinh học gắn với bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm trường hợp buôn bán rong động vật không rõ  nguồn  gốc, giết mổ, vứt xác động vật bệnh, nghi mắc bệnh ra môi trường.

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính đến thời điểm 30/9/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

- Tổng đàn trâu 24.716 con, tăng 2,6% (+638 con). Số con xuất chuồng là 2.239 con, tăng 1,7% (+38 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 594 tấn, tăng 1,7% (+10 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn bò 93.000 con, tăng 9,4% (+8.017 con). Số lượng đàn bò tăng là do nhiều hộ dân được hỗ trợ giống từ các dự án và chương trình mục tiêu quốc gia nên số lượng đàn bò tăng cao ở một số huyện như Sa Thầy, Kon Rẫy, Ia H’Drai. Số con xuất chuồng là 26.715 con, tăng 2,3% (+590 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 4.653 tấn, tăng 2,3% (+103 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn lợn 185.842 con, tăng 13,3% (+21.831 con). Đàn lợn tăng là do giá cả ổn định nên người dân tăng đàn, thêm vào đó, hiện nay mô hình nuôi gia công đang phát triển trên địa bàn tỉnh đã góp phần ổn định cho ngành chăn nuôi của tỉnh. Số con xuất chuồng là 237.856 con, tăng 3% (+7.021 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 18.520 tấn, tăng 2,9% (+524,7 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn gia cầm 2.070 nghìn con, tăng 5,3% (+103.300 con). Trong đó: đàn gà 1.833.500 con, tăng 5,2% (+90.700 con). Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 4.634 tấn, tăng 5,2% (+227,2 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 4.127 tấn, tăng 5,1% (+198,6 tấn). Tổng đàn gia cầm tăng là do hiện nay chăn nuôi gia cầm đang đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chăn nuôi các loại con khác do thời gian thu sản phẩm nhanh, giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ đã đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi, chủ động phòng trừ dịch bệnh kịp thời, tạo thu nhập ổn định cho người chăn nuôi sản xuất. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đang phát triển thêm nhiều cơ sở chăn nuôi gà với quy mô lớn.

Tình hình dịch bệnh

Trong 9 tháng năm 2024, một số dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở động vật như bệnh Lở mồm long móng ở trâu bò, bệnh Dại chó mèo, bệnh Dịch tả lợn Châu phi... đã xảy ra với quy mô nhỏ; các địa phương đã chủ động triển khai các biện pháp phòng chống dịch theo quy định, thiệt hại do dịch bệnh gây nên không lớn, không ảnh hưởng nhiều đến kinh tế các các hộ gia đình chăn nuôi và chỉ tiêu sản xuất năm 2024. Tình hình dịch bệnh cụ thể như sau:

- Bệnh Lở mồm long móng ở trâu, bò: đã xảy ra trên 102 con gia súc của các hộ chăn nuôi trên địa bàn các huyện Đăk Glei, Tu Mơ Rông và thành phố Kon Tum. Đã chăm sóc khỏi các triệu chứng lâm sàng cho 93 con gia súc; tiêu huỷ 09 con gia súc.

- Bệnh Dại ở chó, mèo: đã xảy ra tại 05 xã Ya Ly, Sa Bình, Ya Xiêr, huyện Sa Thầy và xã Ia Tơi, Ia Dom, huyện Ia H’Drai. Tiêu huỷ 137 con chó, mèo (05 con chó mắc bệnh dại, 130 con chó và 02 con mèo bị phơi nhiễm với bệnh Dại).

- Bệnh Dịch tả lợn Châu phi: đã xảy ra trên đàn lợn của các hộ chăn nuôi tại xã Đăk Pék - Đăk Glei, xã Đăk La - Đăk Hà, xã Ia Dom - Ia H’Drai, thị trấn Đăk Tô - Đăk Tô. Tiêu huỷ 229 con lợn nghi mắc bệnh, mắc bệnh và chết. Đến nay, các địa phương cơ bản đã kiểm soát và khống chế, không để dịch bệnh lây lan diện rộng.

- Bệnh Viêm da nổi cục ở trâu, bò: đã xảy ra tại 03 hộ chăn nuôi bò ở thị trấn Đăk Tô, huyện Đăk Tô với 03 con bò mắc bệnh (01 con bò và 02 con bê 4 tháng tuổi).

6.2. Lâm nghiệp

Trong tháng 9 năm 2024, sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu thực  hiện khai thác gỗ, củi và chăm sóc rừng trồng. Ngành Kiểm lâm luôn tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng.

Tính đến 15/9/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 11 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 6,57 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Ước tính đến thời điểm 30/9/2024, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh là 2.738,1 ha, giảm 23,3% (-833,9 ha) so với cùng kỳ năm trước, diện tích giảm là do kế hoạch trồng rừng mới của tỉnh năm nay giảm so với năm trước.

Công tác khai thác lâm sản: Ước tính đến ngày 30/9/2024, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 109.150 m3, tăng 2,3% (+1.2.405 m3) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng củi khai thác ước đạt 217.204 ster, tăng 1,7% (+3.0724 Ster) so với cùng kỳ năm trước.

6.3. Thuỷ sản

Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.

- Ước tính đến 30/9/2024, diện tích nuôi trồng thủy sản là 980 ha, tăng 11,11% (+98 ha) so với cùng kỳ năm trước.

- Ước sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2024 tỉnh Kon Tum đạt 5.391 tấn, tăng 6,52% (+330 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 1.763 tấn chiếm 32,70%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 3.628 tấn chiếm 67,30%.

+ Sản phẩm thủy sản khai thác: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 1.763 tấn, tăng 6,65% (+110 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản khai thác tăng chủ yếu là do số lượng cá khai thác tại các đập, hồ chứa, sông …tăng lên, bên cạnh đó các đơn vị đấu thầu các đập, hồ thuỷ điện, thuỷ lợi trên địa bàn đã thả giống thuỷ sản nhằm tăng nguồn lợi thuỷ sản để khai thác.

+ Sản phẩm thủy sản nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 3.628 tấn, tăng 6,46% (+220 tấn) so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong 9 tháng năm 2024 tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, tăng 11,11%, diện tích nuôi trồng tăng do các đơn vị khoanh nuôi tại các hồ, đập thuỷ điện, thuỷ lợi.

7. Sản xuất công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong quý III và 9 tháng năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước (chỉ số chung 9 tháng tăng 9,99% so cùng kỳ), xu thế các tháng cuối năm ổn định và tăng cao hơn đầu năm, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Đối với ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chịu nhiều tác động bởi khó khăn của tình tình kinh tế trong và ngoài nước song các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn duy trì hoạt động ổn định, một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất, sản xuất bàn, ghế... do nguồn nguyên liệu đảm bảo và tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn đinh; một số doanh nghiệp chú trọng đầu tư mở rộng vùng nguyên liệu nên chủ động hơn trong sản xuất. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù ảnh hưởng bởi tình hình nắn hạn kéo dài trong các tháng đầu năm nhưng vẫn duy trì hoạt động ổn định, đảm bảo nguồn điện cho sản xuất, sinh hoạt trong tỉnh cũng như điều tiết chung của ngành điện. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có mức tăng trưởng tương đối cao, một phần do nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt tăng cao bởi thời tiết nắng nóng, một phần các đơn vị cung cấp nước đầu tư mở rộng hệ thống cung cấp nước đến các khu dân cư, tăng lượng khách hàng sử dụng nước sạch; bên cạnh đó các đơn vị thu gom, xử lý rác thải luôn mở rộng địa bàn thu gom, xử lý rác.

7.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 9 năm 2024 ước tính tăng 11,03% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung trong tháng các ngành sản xuất trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định hơn và đều có chỉ số sản xuất tăng so cùng kỳ. Cụ thể chỉ số sản xuất các ngành như sau: ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 12,09% do nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao ở các công trình xây dựng; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,81% và tăng chủ yếu ở các ngành như chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm hóa chất (sản phẩm cồn sinh học), các sản phẩm từ khoáng phi kim loại... do tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn định, nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất luôn đảm bảo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,24%, hiện tại trên địa bàn tỉnh đang mùa mưa, lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động ổn định theo điều tiết chung của ngành điện; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 19,42%, chỉ số sản xuất nhóm ngành này tăng cao do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng; bên cạnh đó các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy.

So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 ước tính tăng 14,68%. Trong đó ngành khai thác khoáng sản tăng 7,27%, ngành  công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao nhất (tăng 15,51%), chủ yếu tăng ở ngành chế biến thực phẩm (tăng 36,85%), đến tháng 9 hầu hết các nhà máy tinh bột sắn đã hoạt động sản xuất ổn định sau thời gian tạm nghỉ thời vụ, lượng tinh bột sắn sản xuất tăng cao so tháng trước. Ngành sản xuất phân phối điện tăng 14,76% do hiện tại trên địa bàn tỉnh mưa nhiều hơn, lượng nước trên các hồ thủy điện luôn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động hết công suất. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định và có mức tăng nhẹ so với tháng trước.

Chỉ số sản xuất công nghiệp Quý III năm 2024 ước tính tăng 10,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 13,68%, do trong quý trên địa bàn tỉnh đang triển khai nhiều công trình xây dựng, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,38%, trong đó tăng chủ yếu ở một số ngành như chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại, sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sắn... do nguồn cung cấp nguyên liệu đảm bảo và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định, một phần do cầu tiêu thụ các sản phẩm này ở thị trường trong tỉnh tăng mạnh; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,00% do thời tiết mưa nhiều, các nhà máy thủy điện luôn hoạt động ổn định; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 18,69% do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy.   

 Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số IIP ước tính tăng 9,99% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 12,41%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,27%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,38%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 14,98%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 12,41%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,65%; Sản xuất trang phục tăng 9,36%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,43%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 18,72%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 5,30%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 7,20%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7,23%. Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 9,42%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,65%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,81%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,38%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 11,40%; Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu tăng 16,41%.

7.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp

Ước tính một số sản phẩm sản xuất Quý III năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 134.161 m3, tăng 13,16%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 56.833 tấn, tăng 9,11%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 58,78 triệu viên, tăng 5,37%; điện sản xuất 874,4 triệu Kwh, tăng 9,00%.

Tính chung 9 tháng năm 2024 một số sản phẩm chủ yếu so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 2.399,3 triệu Kwh tăng 8,75%; Đá xây dựng khác đạt 365.970 m3 tăng 12,26%; Tinh bột sắn đạt 176.444 tấn tăng 6,20%; Đường RE đạt 10.271 tấn, tăng 44,01%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1.352 ngàn cái, tăng 9,53%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 28.072 m3, tăng 18,72%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 171 triệu trang tăng 5,30%; Cồn béo công nghiệp đạt 7.994 tấn tăng 6,76%; Phân vi sinh đạt 968 tấn tăng 11,91%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.481 tấn, tăng 7,23%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 155,11 triệu viên, tăng 7,28%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 302,2 nghìn viên, tăng 14,82%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 23.919 tấn, tăng 12,96%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 204.326 chiếc, tăng 7,13%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 94.168 chiếc, tăng 9,26%...

7.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 9/2024 ước tính tăng 0,10% so với tháng trước và giảm 0,22% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước giảm 0,46%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 3,21%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 2,37%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,94%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 4,28%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,36% so với cùng kỳ năm trước.

7.4. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

 Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9 năm 2024 ước tính tăng 9,69% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm trong tháng tương đối thuận lợi, sản phẩm tiêu thụ luôn tăng theo lượng sản xuất,  hầu hết các nhóm ngành đều có chỉ số tiêu thụ tăng. 

7.5. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Ước tính đến thời điểm 30/9/2024 tăng 19,71% so với cùng thời điểm năm trước. Chỉ số tồn kho hiện đến tháng 9 ước tính tăng cao so cùng kỳ do các tháng đầu năm tiêu thụ chậm. So tháng trước chỉ số tồn kho đã giảm 3,23% do trong tháng tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn.

8. Thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng 9 trên địa bàn tỉnh khá sôi động với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 1,59% so với tháng trước và tăng 17,85% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 9 năm 2024 tăng so với tháng trước là do thị trường hàng hóa tương đối ổn định, nhu cầu hàng may mặc, vật phẩm, văn hoá, giáo dục, trang thiết bị gia đình tăng trong thời gian tập trung cho khai giảng năm học mới. Đồng thời, từ ngày 06-12/9/2024 trên địa bàn tỉnh đã tổ chức Hội chợ Công Thương vùng Tây Nguyên - Kon Tum 2024 với quy mô trên 250 gian hàng tham gia của các cơ quan, địa phương của tỉnh và hơn 110 doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, Hội chợ đã thu hút sự quan tâm mua sắm của Nhân dân đối với các sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, sản phẩm OCOP, sản phẩm đặc trưng vùng miền, địa phương; hàng công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nông sản, thực phẩm, viễn thông, dịch vụ du lịch, điện, điện tử, điện máy, điện lạnh và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu... Hoạt động du lịch, dịch vụ tăng do nhu cầu du lịch của người dân tăng cao vào dịp nghỉ Lễ 2/9, làm cho tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tăng nhẹ so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng  năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tăng 13,78% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 13,29%.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 9 năm 2024 đạt 3.328,95 tỷ đồng, tăng 1,59% với tháng trước và tăng 17,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.799,06 tỷ đồng, chiếm 84,08% trong tổng số, tăng 1,79% so với tháng trước và tăng 17,34% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 336,67 tỷ đồng, chiếm 10,11% trong tổng số, tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 19,88% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 193,21 tỷ đồng, chiếm 5,8% trong tổng số, tăng 0,63% so với tháng trước và tăng 21,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính quý III năm 2024 ước đạt 9.940,17 tỷ đồng, tăng 2,16% so với quý trước và tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 8.278,3 tỷ đồng, chiếm 83,14% trong tổng số, tăng 2,32% so với quý trước và tăng 16,62% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.010,92 tỷ đồng, chiếm 10,17% trong tổng số và tăng 1,39% so với quý trước và tăng 19,22% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 650,94 tỷ đồng, chiếm 6,55% trong tổng số, tăng 1,23% so với quý trước và tăng 20,13% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 28.997,61 tỷ đồng, tăng 13,78% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2024 ước đạt 24.180  tỷ đồng, chiếm 83,39% trong tổng số, tăng 13,29% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 12,72%; Hàng may mặc, tăng 16,33%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 11,17%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 11,30%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 13,75%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 9,68%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 18,84%; Xăng, dầu các loại, tăng 11,05%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 24,02%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 26,79%; Hàng hoá khác, tăng 8,71%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 13,95%.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 9 tháng năm 2024 ước đạt 2.916,19 tỷ đồng, chiếm 10,06% trong tổng số và tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 189,99 tỷ đồng, tăng 26,08%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.723,38 tỷ đồng, tăng 13,75%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 2,83 tỷ đồng tăng 38,38%.

- Doanh thu dịch vụ khác 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.901,42 tỷ đồng, chiếm 6,56% trong tổng số, tăng 19,30% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước phải kể đến như: Dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 23,27%; Dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 21,38%; Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 21,64%; Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 19,17%; Dịch vụ khác tăng 20,81%...

Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 9 tháng năm 2024 tăng so với năm trước là do: Trong những tháng đầu năm 2024 (thời điểm có diễn ra Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024), để bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường trên địa bàn tỉnh Kon Tum, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-UBND ngày 26/12/2023 về tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Công văn số 807/UBND-KTTH ngày 11/3/2024 về việc triển khai thực hiện công tác quản lý, điều hành giá năm 2024. Trong 9 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định và đời sống Nhân dân tương đối ổn định so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp và hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mãi tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch, nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3), các hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập thành phố Kon Tum, kỷ niệm 30 năm thành lập huyện Đăk Hà (24/3/1994 - 24/3/2024), dịp lễ 30/4, 01/5 và 02/9 kéo dài ngày,… hấp dẫn phục vụ du khách dịp Tết, Lễ hội.

8.2. Vận tải

Tình hình giao thông, vận tải trên địa bàn tỉnh trong tháng 9 duy trì được sự tăng trưởng và ổn định hơn so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước là do trong tháng có kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2/9 dài ngày nên nhu cầu đi lại của người dân tăng và là thời gian học sinh đi nhập học các trường Đại học và trường chuyên nghiệp. Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với cùng kỳ năm trước là do một số sản phẩm nông nghiệp đang mùa thu hoạch như cao su, … và các cơ sở kinh doanh vận tải hàng hóa đầu tư trang bị thêm các dòng xe có tải trọng lớn. Tính chung 9 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 12,73%, luân chuyển hành khách tăng 12,19% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 9,48%, luân chuyển hàng hóa tăng 9,99% so với cùng kỳ năm trước.

a) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 9 năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 9 năm 2024 đạt 267,46 tỷ  đồng, tăng 1,93% so với tháng trước và tăng 13,28% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 77,05 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,77%), so với cùng kỳ năm trước tăng 12,66%; Vận chuyển ước đạt 1.099 nghìn lượt khách, tăng 11,87%; Luân chuyển ước đạt 146.752 nghìn lượt khách.km, tăng 13,05%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 171,64 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,96%), so với cùng kỳ năm trước tăng 13,18%; Vận chuyển ước đạt 1.711 nghìn tấn, tăng 10,95%; Luân chuyển ước đạt 88.754 nghìn tấn.km, tăng 11,62%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1,97 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,35%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 16,8 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 16,72%.

b) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính quý III năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính quý III năm 2024 đạt 789,05 tỷ  đồng, tăng 12,63% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 226,59 tỷ đồng, tăng 13,41%; Vận chuyển ước đạt 3.258 nghìn lượt khách, tăng 9,72%; Luân chuyển ước đạt 434.425 nghìn lượt khách.km, tăng 10,74%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 507,18 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,0%; Vận chuyển ước đạt 5.084 nghìn tấn, tăng 9,48%; Luân chuyển ước đạt 263.327 nghìn tấn.km, tăng 10,19%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 5,82 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,85%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 49,46 tỷ đồng, tăng  14,89%.

c) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính 9 tháng năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 9 tháng năm 2024 đạt 2.268,89 tỷ  đồng, tăng 15,13% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 652,58 tỷ đồng, tăng 21,87%; Vận chuyển ước đạt 9.348 nghìn lượt khách, tăng 12,73%; Luân chuyển ước đạt 1.223.489 nghìn lượt khách.km, tăng 12,19%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.457,16 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,47%; Vận chuyển ước đạt 14.767 nghìn tấn, tăng 9,48%; Luân chuyển ước đạt 750.374 nghìn tấn.km, tăng 9,99%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 16,99 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 20,92%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 142,16 tỷ đồng, tăng  13,15%.

9. Các vấn đề xã hội

9.1. Tình hình đời sống dân cư

Trong quý III, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả như: Diện tích gieo trồng cây vụ Mùa cơ bản đảm bảo tiến độ; chăn nuôi phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, khách du lịch tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh được đảm bảo. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Bên cạnh những kết quả đạt được, còn có một số khó khăn, hạn chế và thách thức như: Tình hình bệnh Dịch tả lợn Châu Phi còn xảy ra trên địa bàn một số xã; mưa lũ, động đất gây ảnh hưởng đến một số cơ sở hạ tầng như: Trường học, trụ sở xã, công trình thủy lợi; tai nạn giao thông chưa được kiềm chế.

9.2. Tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội

Trong quý III, công tác lao động, việc làm và giáo dục nghề nghiệp được triển khai kịp thời. Các chế độ, chính sách, dự án ưu đãi đối với người có công cách mạng; hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội; công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em được thực hiện đảm bảo theo quy định.

Tổ chức các hoạt động kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2024) theo Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh[4]; kịp thời trao tặng quà của Chủ tịch nước, các cấp, ngành và các tổ chức cho các đối tượng người có công[5] và tổ chức đưa người có công tham dự Hội nghị biểu dương người có công tiêu biểu toàn quốc tại Hà Nội nhân kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ.

Trợ cấp, phụ cấp hàng tháng cho các đối tượng thụ hưởng được chi trả kịp thời, đúng đối tượng. Hỗ trợ đột xuất chủ yếu là các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không thuộc Nghị định 20/2021/NĐ-CP được hưởng theo chính sách trợ giúp xã hội đặc thù của tỉnh theo Nghị quyết 68/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum.

Quý III đã hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng với số tiền là 15.962 triệu đồng tăng 2.780 triệu đồng (+21,09%) so với cùng kỳ quý trước, số tiền tăng chủ yếu là do quà của Chủ tịch nước, các cấp, ngành và các tổ chức cho các đối tượng người có công nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ.

Số thẻ bảo hiểm y tế cấp miễn phí cho các đối tượng giảm 9.712 đối tượng (-3,46%) so với quý trước, số đối tượng giảm tập trung chủ yếu là Đối tượng nghèo.

9.3. Tình hình nổi bật về xã hội

Trong quý III, lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh được đảm bảo. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời, cụ thể:

a) Về y tế

 Ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai tích cực, chủ động, các dịch bệnh trên người được kiểm soát tốt; công tác đảm bảo an toàn thực phẩm được triển khai thực hiện nghiêm túc.

 (1)Tình hình dịch bệnh tháng 8 năm 2024:

- Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, ghi nhận 8 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 7, Đăk Glei 1), tăng 6 ca so với tháng trước và giảm 18 ca so với tháng 8/2023. Luỹ tích đến 31/8/2024, không có tử vong, ghi nhận 20 ca mắc, giảm 67 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 9 ca mắc mới (Ngọc Hồi 8, Kon Rẫy 1), tăng 5 ca so với tháng trước và tăng 9 ca so với tháng 8/2023. Luỹ tích đến 31/8/2024, không có tử vong, ghi nhận 119 ca mắc, giảm 6 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 10 ca mắc mới (huyện Đăk Glei), giảm 7 ca so với tháng trước và tăng 9 ca so với tháng 8/2023. Luỹ tích đến 31/8/2024, không có tử vong, ghi nhận 155 ca mắc, tăng 119 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 42 ổ dịch mới (thành phố Kon Tum 15, Đăk Hà 6, Đăk Tô 1, Ngọc Hồi 4, Kon Rẫy 13, Sa Thầy 3), tăng 14 ổ dịch so với tháng trước và tăng 12 ổ dịch so với tháng 8/2023. Lũy tích đến 31/8/2024, ghi nhận 95 ổ dịch, tăng 28 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, ghi nhận 88 ca mắc mới, giảm 41 ca so với tháng trước và giảm 9 ca so với tháng 8/2023. Luỹ tích đến 31/8/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 276 ca mắc, tăng 68 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Viêm não Nhật Bản: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới, giảm 2 ca so với tháng trước và giảm 2 ca so với tháng 8/2023. Lũy tích đến 31/8/2024, không có tử vong, ghi nhận 2 ca mắc tại thành phố Kon Tum, giảm 1 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Bệnh sởi: Trong tháng, ghi nhận 1 ca mắc mới tại huyện Đăk Hà, tăng 1 ca so với tháng trước và tăng 1 ca so với tháng 8/2023. Lũy tích đến 31/8/2024, không có tử vong, ghi nhận 1 ca mắc, tăng 1 ca so với cùng kỳ năm trước. - Bệnh Lao: Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 28 ca mắc mới, tăng 1 ca với tháng trước và giảm 55 ca so với tháng 8/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 31/8/2024, không có tử vong, ghi nhận 239 ca, giảm 84 ca so với cùng kỳ năm trước; trong đó lao phổi AFB (+) 169, lao phổi AFB (-) 15 và lao ngoài phổi 55. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 31/8/2024, ghi nhận 2.548 ca; trong đó tử vong 26 ca, hoàn thành điều trị 2.292 ca, đang được quản lý điều trị 230 ca.

- Bệnh Phong: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 31/8/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 1 ca mắc tại huyện Đăk Glei, bằng so với cùng kỳ năm trước.

- Trong 8 tháng đầu năm 2024, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...); Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV); Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID-19); Đậu mùa khỉ; Cúm A(H1N1); Sốt rét; Bệnh do vi rút Zika; Viêm gan vi rút A; Bạch hầu; Dại; Ho gà;...

(2) Phòng chống HIV/AIDS:

- Tình hình HIV/AIDS trong tháng 8/2024: Số người ghi nhận nhiễm HIV trong tháng 2 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật 01, bệnh nhân HIV từ nơi khác chuyển về tiếp tục điều trị ARV 01). Lũy tích HIV/AIDS tính đến ngày 31/8/2024: Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS 604 người; trong đó tử vong do HIV/AIDS 213 người (AIDS 200, HIV 13), nhiễm HIV/AIDS còn sống 391 người (còn sống đang quản lý và tiếp cận được 256); nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 305 người, trong đó còn sống 105.

- Điều trị ARV: Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 31/8/2024 là 203 bệnh nhân (có 9 trẻ em). Tổng số bệnh nhân hiện đang điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 11.

b) Về giáo dục

 Ngày 13/9/2024 Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo năm học 2023 - 2024; triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm học 2024 - 2025. Theo đó, Ngành GD&ĐT của tỉnh đã tham mưu chỉ đạo kịp thời, có hiệu quả công tác tuyển sinh năm học 2024- 2025; tổ chức thành công, nghiêm túc, khách quan, đúng quy chế Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024; công tác kiểm tra, đôn đốc các nhiệm vụ giáo dục được các cấp quản lý chú trọng triển khai; cải cách hành chính được chú trọng hiệu quả; công tác chuyển đổi số trong ngành được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả nổi bật…

Năm học 2024 - 2025 trên địa bàn tỉnh bắt đầu tựu trường vào ngày 26/8/2024, riêng đối với lớp Một, tựu trường từ ngày 12/8/2024 (thực hiện tăng cường tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một) và từ ngày 19/8/2024, thực hiện “Tuần làm quen” cho học sinh lớp Một (đối với vùng thuận lợi). Tổ chức khai giảng vào ngày 05/9/2024.

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định ban hành khung kế hoạch thời gian năm học 2024-2025 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh Kon Tum; Công văn về việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm học 2024 – 2025 trên địa bàn tỉnh, Công văn về việc triển khai các nội dung về giáo dục nghề nghiệp thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, Công văn về việc chủ động triển khai phòng, chống dịch trong mùa tựu trường.

c) Về văn hóa, thể dục thể thao

- Về văn hóa: Công tác khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống của các dân tộc thiểu số, các di tích lịch sử cách mạng gắn với phát triển du lịch tiếp tục được triển khai.

- Về thể dục thể thao: Hoạt động thể thao diễn ra khá sôi nổi[6], phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì; Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng Nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng.

d) Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương

Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, không phát sinh các vấn đề nổi cộm về an ninh trật tự, môi trường. Tuy nhiên, tình hình phạm tội về ma túy trên địa bàn có chiều hướng gia tăng so với quý trước, cụ thể: Phát hiện 113 vụ (tăng 52 vụ).

- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 19 vụ[7]  (giảm 07 vụ so với tháng trước). Hậu quả, thiệt hại: 01 người chết; 02 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 4,7 tỷ đồng. Địa bàn: TP Kon Tum 10 vụ; Đăk Hà 04 vụ; Đăk Tô 03 vụ; Kon Plông 01 vụ; Sa Thầy 01 vụ.

- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 01 vụ vi phạm quy định về khai thác bảo vệ rừng và lâm sản trên địa bàn huyện Kon Plông (tăng 01 vụ so với tháng trước).

- Phạm tội về ma túy: Phát hiện 05 vụ (giảm 13 vụ so với tháng trước), cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 02 vụ; Vận chuyển trái phép chất ma tuý 01 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 6,241g ma túy tổng hợp. Địa bàn: TP Kon Tum 04 vụ; Ngọc Hồi 01 vụ.

- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 08 vụ TNGT (04 vụ ít nghiêm trọng, 04 vụ nghiêm trọng) làm 04 người chết, 08 người bị thương. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng: 47 tỷ đồng. So với tháng 8/2024: Giảm 06 vụ, giảm 06 người chết, giảm 03 người bị thương; so với cùng kỳ tháng 09/2023: Giảm 06 vụ, giảm 08 người chết, giảm 06 người bị thương.

- Tình hình cháy, nổ: Xảy ra 01 vụ cháy nhà để ở kết hợp sản xuất kinh doanh tại thành phố Kon Tum (bằng số vụ so với tháng trước; tăng 01 vụ so với tháng 9/2023). Hậu quả: thiệt hại về tài sản khoảng 385 triệu đồng. Nguyên nhân: Đang điều tra.

- Tình hình sự cố, tai nạn: Xảy ra 01 vụ (giảm 01 vụ so với tháng trước; giảm 01 vụ so với tháng 9/2023); Hậu quả: 01 người chết; Kết quả CNCH: Tìm được 01 thi thể nạn nhân.

e) Tình hình môi trường

Vi phạm môi trường: Trong tháng, phát hiện 01 vụ vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn huyện Ngọc Hồi; huyện Đăk Hà đã xử lý 02 vụ vi phạm phát hiện từ tháng 5/2024, bao gồm: 01 vụ vi phạm quy định về khai thác bảo vệ rừng và lâm sản xảy ra tại tiểu khu 324A (xã Đăk Long), 01 vụ án hủy hoại rừng (xã Đăk Pxi); huyện Tu Mơ Rông đã xử lý 01 vụ vi phạm quy định về khai thác bảo vệ rừng và lâm sản.

 

[1] Nghị quyết số 23-NQ/TU ngày 05 tháng 12 năm 2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, khóa XVI; Nghị quyết số 61/NQ-HĐND ngày 09 tháng 12 năm 2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh.

[2] Nguồn: Báo cáo NHNN Chi nhánh tỉnh Kon Tum

[3] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư

[4] Kế hoạch số 2051/KH-UBND ngày 12/6/2024.

[5] Trao 4.219 suất quà của Chủ tịch nước trị giá 1.277,4 triệu đồng; Ngân sách cấp tỉnh tặng 100 suất quà trị giá 150 triệu đồng; Ngân sách cấp huyện tặng 2.104 suất quà trị giá 665,76 triệu đồng; Quà cấp xã tặng 2.576 suất trị giá 451,7 triệu đồng; Quà xã hội hóa tặng 991 suất trị giá 251,7 triệu đồng; Quà từ các nguồn khác tặng 72 suất trị giá 23,4 triệu đồng.

[6] Tổ chức giải Bóng đá Thiếu niên - Nhi đồng tỉnh Kon Tum năm 2024; giải Cầu lông tỉnh Kon Tum mở rộng năm 2024; Hội thi kiến thức, kỹ năng phòng, chống đuối nước dành cho trẻ em tỉnh Kon Tum năm 2024.

[7] Cướp tài sản 01 vụ; Giao cấu với người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 01 vụ; cố ý gây thương tích 03 vụ; Trộm cắp tài sản 07 vụ; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 04 vụ; vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản 01 vụ; Chế tạo,Tàng trữ trái phép vũ  khí quân dụng 01 vu; Tàng trữ, Mua bán trái phép vũ khí quân dụng 01 vụ.

3 Địa bàn: TP Kon Tum 05 vự; Kon Rẫy 02 vụ; lIa H’Drai vụ.

Xem và tải về:   Tải về

Cục Thống kê 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC