1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong tháng 10 năm 2024, hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung thu hoạch cây trồng Vụ mùa; các ngành chức năng thường xuyên triển khai công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng mới và chăm sóc rừng.
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Cây hàng năm
Ước tính đến ngày 20/10/2024, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ mùa 2024 trên địa bàn tỉnh là 65.892 ha, tăng 0,17% (+110,9 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể DTGT một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:
- Cây lúa DTGT: 15.171 ha, giảm 1,72% (-265,7 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây lúa ruộng: 12.728 ha, tăng 1%; Cây lúa rẫy: 2.443 ha, giảm 13,7%. Diện tích cây lúa rẫy giảm chủ yếu ở huyện Đắk Glei, Tu Mơ Rông là do năng suất và hiệu quả kinh tế không cao nên người dân chuyển sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn như cây dược liệu, cây ăn quả…
- Cây ngô DTGT: 3.668 ha, giảm 13,10% (-553,7 ha). Diện tích gieo trồng giảm chủ yếu ở Thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông, do người dân chuyển đổi sang trồng cây khác như cây mía, sắn.
- Cây sắn DTGT: 39.997 ha, tăng 1,81% (+713,3 ha).
- Cây mía gieo trồng được 1.521 ha, tăng 24,7% (+ 301,8 ha). Diện tích mía tăng là do nhà máy đường kết hợp với người dân khôi phục lại diện tích mía đã bỏ trống từ các năm trước, bên cạnh đó thực hiện theo kế hoạch của UBND tỉnh phát triển vùng nguyên liệu mía đến hết năm 2024 là 2.000 ha nên các tổ chức, cá nhân và nhà máy đường đã ký kết hợp đồng mở rộng DTGT mía.
- Rau các loại DTGT: 1.803 ha, tăng 10,75% (+ 175,4 ha). Tập trung chủ yếu ở các vùng chuyên canh rau như: Thành phố Kon Tum, huyện Kon Plông, huyện Đắk Hà do nhu cầu thị trường tăng nên người dân và doanh nghiệp mở rộng DTGT.
- Đậu các loại DTGT: 360 ha, tăng 1,41% (+5,5 ha).
- Hoa các loại DTGT: 88 ha, giảm 23,48% (- 27 ha). Diện tích giảm là do năm trước người dân đầu tư, chăm sóc nhiều nhưng lợi nhuận không cao nên năm nay chuyển qua trồng các loại cây khác như rau các loại.
- Khoai lang DTGT: 728 ha, tăng 15,83% (+ 98,6 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở huyện Đắk Hà do người dân tăng diện tích trồng xen trên đất tái canh.
Nhìn chung, từ đầu vụ Mùa đến nay, điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi từ gieo sạ đến thu hoạch không gặp mưa lớn. Các loại sâu bệnh được phòng trừ kịp thời nên cây trồng phát triển tốt, đảm bảo năng suất mùa vụ.
Cây lâu năm
- Tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh ước tính đến thời điểm 31/10/2024 đạt 135.703 ha, tăng 6,06% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, một số cây trồng chủ lực của tỉnh (cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả) đang sinh trưởng và phát triển tốt. Tổng diện tích cây cà phê đạt 30.992 ha, tăng 4,42% (Diện tích cây cà phê trồng mới 1.284 ha); Diện tích cây cao su đạt 80.095 ha, tăng 1,58% (Diện tích cây cao su trồng mới 1.099 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng diện tích cây ăn quả đạt 16.630 ha, tăng 30,60% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó cây Mắc ca 4.142 ha, tăng 23,67% (Diện tích cây Mắc ca trồng mới 625 ha). Diện tích cây ăn quả tăng cao là do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nhiều nhóm cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế như chuối, sầu riêng, chanh leo, mắc ca, mít… Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường ổn định nên nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung vào những nông sản có giá trị để xuất khẩu như chanh leo, chuối, sầu riêng… đồng thời các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại, do đó nhiều nông dân và doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi từ cây hàng năm hiệu quả không cao sang trồng cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
b) Chăn nuôi
Ngành chăn nuôi tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh trên động vật, quản lý chặt chẽ tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, tổ chức tiêm vắc-xin phòng bệnh cho động vật, đặc biệt là bệnh nguy hiểm trên đàn vật nuôi, như: cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục.... nên trong tháng không xảy ra dịch bệnh trên đàn vật nuôi.
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính đến thời điểm 31/10/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:
- Tổng đàn trâu 24.802 con, tăng 3,0% (+718 con). Số con xuất chuồng là 2.518 con, tăng 1,7% (+42 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 663 tấn, tăng 1,7% (+11 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn bò 95.121 con, tăng 11,9% (+10.129 con). Số lượng đàn bò tăng là do nhiều hộ dân được hỗ trợ giống từ các dự án và chương trình mục tiêu quốc gia nên số lượng đàn bò tăng cao ở một số huyện như Đăk Tô, Sa Thầy, Ia H’Drai. Số con xuất chuồng là 29.160 con, tăng 2,3% (+656 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 4.997 tấn, tăng 2,3% (+112 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn lợn 188.025 con, tăng 14,6% (+23.987 con). Đàn lợn tăng là do giá cả ổn định nên người dân tăng đàn, thêm vào đó, hiện nay mô hình nuôi gia công đang phát triển trên địa bàn tỉnh đã góp phần ổn định cho ngành chăn nuôi của tỉnh. Số con xuất chuồng là 266.154 con, tăng 3,4% (+8.643 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 20.502 tấn, tăng 3,6% (+715 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn gia cầm 2.048,5 nghìn con, tăng 5,1% (+98.500 con). Trong đó: đàn gà 1.841,2 nghìn con, tăng 5,2% (+91.200 con). Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 5.275,5 tấn, tăng 5,2% (+259,5 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 4.672 tấn, tăng 5% (+222,6 tấn). Tổng đàn gia cầm tăng là do hiện nay chăn nuôi gia cầm đang đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chăn nuôi các loại con khác do thời gian thu sản phẩm nhanh, giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ đã đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi, chủ động phòng trừ dịch bệnh kịp thời, tạo thu nhập ổn định cho người chăn nuôi sản xuất. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đang phát triển thêm nhiều cơ sở chăn nuôi gà với quy mô lớn.
1.2. Lâm nghiệp
Trong tháng 10 năm 2024, sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu thực hiện khai thác gỗ và chăm sóc rừng trồng. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân đã góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.
Tính đến 20/10/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 6,67 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Ước tính đến thời điểm 31/10/2024, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh là 3.121,6 ha, giảm 31,1% (-1.412 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng mới giảm là do kế hoạch trồng rừng mới của tỉnh năm nay giảm so với năm trước.
Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 31/10/2024, trên địa bàn tỉnh sản lượng khai thác gỗ là 126.310 m3, tăng 2,6% (+3.164 m3); sản lượng củi là 241.510 ster, tăng 2,0% (+ 4.698 ster) so với cùng kỳ năm trước; Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trên địa bàn tỉnh đạt 3.288 nghìn cây.
1.3. Thuỷ sản
Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
- Ước tính đến 31/10/2024, diện tích nuôi trồng thủy sản là 1.018 ha, tăng 6,6% (+63 ha) so với cùng kỳ năm trước.
- Ước sản lượng thủy sản 10 tháng năm 2024 tỉnh Kon Tum đạt 6.155 tấn, tăng 6,1% (+354 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 1.915 tấn chiếm 31,11%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 4.240 tấn chiếm 68,89%.
+ Sản phẩm thủy sản khai thác: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 1.915 tấn, tăng 5,5% (+100 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản khai thác tăng chủ yếu là do số lượng cá khai thác tại các đập, hồ chứa, sông …tăng lên, bên cạnh đó các đơn vị đấu thầu các đập, hồ thuỷ điện, thuỷ lợi trên địa bàn đã thả giống thuỷ sản nhằm tăng nguồn lợi thuỷ sản để khai thác.
+ Sản phẩm thủy sản nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 4.240 tấn, tăng 6,4% (+254 tấn) so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, tăng 6,6%, diện tích nuôi trồng tăng do các đơn vị khoanh nuôi tại các hồ, đập thuỷ điện, thuỷ lợi.
2. Sản xuất công nghiệp
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 10 và 10 tháng năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, xu thế các tháng cuối năm ổn định và tăng cao hơn đầu năm, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Đối với ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chịu nhiều tác động bởi khó khăn của tình tình kinh tế trong và ngoài nước song các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn duy trì hoạt động ổn định, một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất, sản xuất các sản phẩm từ cao su, sản xuất bàn, ghế... do nguồn nguyên liệu đảm bảo và tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn định; một số doanh nghiệp chú trọng đầu tư mở rộng vùng nguyên liệu nên chủ động hơn trong sản xuất. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù ảnh hưởng bởi tình hình nắng hạn kéo dài trong các tháng đầu năm nhưng vẫn duy trì hoạt động ổn định, đảm bảo nguồn điện cho sản xuất, sinh hoạt trong tỉnh cũng như điều tiết chung của ngành điện. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có mức tăng trưởng tương đối cao, một phần do nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt tăng cao bởi thời tiết nắng nóng, một phần các đơn vị cung cấp nước đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống cung cấp nước đến các khu dân cư, tăng lượng khách hàng sử dụng nước sạch; bên cạnh đó các đơn vị thu gom, xử lý rác thải luôn mở rộng địa bàn thu gom, xử lý rác, tăng năng lực thu gom, xử lý rác.
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 10 năm 2024 ước tính tăng 10,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng cao nhất ở ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải (tăng 16,49%), do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao, hệ thống cung cấp nước được đầu tư nâng cấp và mở rộng hơn; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy. Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 13,80%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang tập trung thi công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng trong và ngoài tỉnh. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,71%, trong đó tăng cao ở một số ngành như chế biến gỗ (do nguồn nguyên liệu gỗ cây cao su hết chu kỳ cho sản phẩm được khai thác lấy gỗ); sản xuất các sản phẩm từ cao su (mủ cao su khai thác trên địa bàn); sản xuất cấu kiện kim loại... đều do nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định... . Ngành sản xuất phân phối điện tăng tăng 9,75% do điều tiết hoạt động chung của ngành điện.
So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 10 ước tính tăng 15,74%. Trong đó ngành khai thác khoáng sản tăng 9,40%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,06%, chủ yếu tăng ở ngành chế biến thực phẩm (tăng 20,87%), do đến tháng 10 trên địa bàn tỉnh đang là chính vụ thu hoạch cây sắn, các nhà máy tinh bột sắn thu mua đủ nguyên liệu và hoạt động ổn định, lượng tinh bột sắn sản xuất tăng cao so tháng trước. Ngành sản xuất phân phối điện tăng 17,48% do hiện tại lượng nước trên các hồ thủy điện luôn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động hết công suất. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.
Tính chung 10 tháng năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 10,20% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,79%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,63%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,54%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,19%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 12,79%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,51%; Sản xuất trang phục tăng 9,84%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,85%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 19,59%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 7,04%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 9,13%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,95%. Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 10,17%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 13,10%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,49%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,54%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 11,41%; Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu tăng 16,70%.
2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 10 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 52.380 m3, tăng 12,67%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 36.847 tấn, tăng 7,54% so cùng kỳ năm trước; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 22,22 triệu viên, tăng 2,66%; điện sản xuất 397,48 triệu Kwh, tăng 9,09%.
Tính chung 10 tháng năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước: Đá xây dựng khác đạt 418.445 m3 tăng 12,34%; Tinh bột sắn đạt 213.243 tấn tăng 6,41%; Đường RE đạt 10.271 tấn, tăng 44,01%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1.518 ngàn cái, tăng 9,58%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 32.227 m3, tăng 19,59%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 196 triệu trang tăng 7,04%; Cồn béo công nghiệp đạt 8.922 tấn tăng 8,65%; Phân vi sinh đạt 1.078 tấn tăng 14,32%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.721 tấn, tăng 10,95%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 178.238 nghìn viên, tăng 7,22%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 338 nghìn viên, tăng 14,24%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 27.017 tấn, tăng 14,31%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 236.563 chiếc, tăng 7,31%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 109.211 chiếc, tăng 9,34%; Điện sản xuất đạt 2.799 triệu Kwh tăng 8,90%; Nước uống được đạt 3.516 nghìn m3 tăng 11,41%...
2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 10/2024 tăng 0,07% so với tháng trước và giảm 0,58% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,56% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước giảm 1,10%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 3,17%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 1,89%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,41%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 4,36%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 13,04% so với cùng kỳ năm trước.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]
Trong tháng 10 năm 2024 (tính đến ngày 20/10/2024) toàn tỉnh có 23 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 58 tỷ đồng, giảm 11,53% về số doanh nghiệp và giảm 34,83% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 04 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 10 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 01 doanh nghiệp đã giải thể.
Tính chung 10 tháng năm 2024 (tính đến ngày 20/10/2024) toàn tỉnh có 246 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 0,41% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 1.775 tỷ đồng, giảm 32,68% so với cùng kỳ năm trước và số lao động đăng ký 1.516 lao động. Có 41 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 50,60% so với cùng kỳ năm trước; 182 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 4,59% so với cùng kỳ năm trước; 41 doanh nghiệp đã giải thể, giảm 36,92% so với cùng kỳ năm trước.
4. Đầu tư
Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tháng 10/2024 tiếp tục được các Sở, ngành và địa phương nỗ lực đẩy mạnh thực hiện triển khai, giải ngân vốn đầu tư công, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đặc biệt là các dự án chuyển tiếp. Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Tính chung 10 tháng năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt 2.812 tỷ đồng, tăng 4,85% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh trong tháng 10 năm 2024 là 439,9 tỷ đồng, tăng 3,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, bao gồm: Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 230,6 tỷ đồng, chiếm 52,43% trong tổng số nguồn vốn; Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 209,3 tỷ đồng, chiếm 47,57% trong tổng số nguồn vốn.
Tính chung 10 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn đạt 2.812 tỷ đồng, tăng 4,85% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 1.756 tỷ đồng, tăng 1,95% so với cùng kỳ năm trước chiếm 62,43% trong tổng số nguồn vốn. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh là 992 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 666 tỷ đồng; nguồn vốn ODA 30 tỷ đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết là 688 tỷ đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 1.056 tỷ đồng, tăng 10,04% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 35,21% trong tổng số nguồn vốn. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện là 429 tỷ đồng; nguồn vốn hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 628 tỷ đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp xã không phát sinh.
Nhìn chung trong 10 tháng năm 2024 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2023 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2024 đang được các đơn vị triển khai thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối Tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra Biên giới xã Mo Rai Huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; Kè chống lũ lụt, sạt lở các làng đồng bào DTTS dọc sông Đăk Bla trên địa bàn TP Kon Tum (tuyến bờ bắc), Hệ thống thoát nước, vỉa hè các tuyến đường nội thành, thành phố Kon Tum…
5. Hoạt động ngân hàng[2]
- Tình hình thực hiện lãi suất: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên địa bàn áp dụng mức lãi suất như sau:
* Lãi suất huy động bằng VNĐ: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng : ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 3,0-4,0%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,0-5,0%/năm.
* Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 9,0-12,0%/năm.
- Hoạt động huy động vốn: Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn.
Đến ngày 31/10/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 23.000 tỷ đồng, giảm 0,1% (-24 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.750 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,6% tổng nguồn vốn huy động, tăng 6,9% (+114 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.
- Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn.
Đến ngày 31/10/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đạt 48.500 tỷ đồng, tăng 4,3% (+1.988 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:
- Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 30.600 tỷ đồng, chiếm 63,1% tổng dư nợ, tăng 6,8% (+1.956 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.900 tỷ đồng, chiếm 36,9% tổng dư nợ, tăng 0,2% (+32 tỷ đồng) so với đầu năm.
- Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.300 tỷ đồng, chiếm 31,5% tổng dư nợ, tăng 2,5% (+380 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 56 tỷ đồng, chiếm 0,1% tổng dư nợ, tăng 4,0% (+2,1 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 33.140 tỷ đồng, chiếm 68,3% tổng dư nợ, tăng 5,1% (+1.605 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 4,0 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.
6. Thương mại, dịch vụ
Trong 10 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định và đời sống Nhân dân ổn định so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp và hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mãi tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch, nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3), các hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập thành phố Kon Tum, kỷ niệm 30 năm thành lập huyện Đăk Hà (24/3/1994 - 24/3/2024), dịp lễ 30/4, 01/5 và 02/9 kéo dài ngày, Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng huyện Kon Plông (12/10/1974 - 12/10/2024), tổ chức “Tuần lễ Múa Việt Nam - Vietnam Dance Week 2024”, ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10)..., với nhiều chương trình, nội dung hấp dẫn phục vụ, thu hút du khách dịp Tết, Lễ hội. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng năm 2024 tăng 14,17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 13,68%.
6.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 10 năm 2024 đạt 3.347 tỷ đồng, tăng 0,51% với tháng trước và tăng 17,64% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.813 tỷ đồng, chiếm 84,06% trong tổng số, tăng 0,49% so với tháng trước và tăng 17,19% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 339 tỷ đồng, chiếm 10,12% trong tổng số, tăng 0,62% so với tháng trước và tăng 20,43% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 195 tỷ đồng, chiếm 5,81% trong tổng số, tăng 0,65% so với tháng trước và tăng 18,02% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 10 năm 2024 tăng so với tháng trước là do tình hình thị trường hàng hóa tương đối ổn định, nguồn cung hàng hóa cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, giá hàng hóa không có biến động lớn, thị trường tương đối bình ổn, việc tăng lương cơ sở từ ngày 01/7/2024 đã góp phần tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức. Lưu thông hàng hóa trên thị trường thuận lợi; Một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại đã tăng cường triển khai các chương trình khuyến mại đối với một số mặt hàng, thay đổi mẫu mã và nâng cao chất lượng hàng hóa nhằm kích thích lượng tiêu dùng cũng như sức mua của người dân; Giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng. Đồng thời, thời tiết trên địa bàn toàn tỉnh đang trong giai đoạn chuyển mùa, tương đối thuận lợi so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tiếp tục ổn định, thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và chi tiêu cho đời sống theo đó cũng tăng lên đã làm cho doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa và hoạt động du lịch, dịch vụ tăng do nhu cầu du lịch của người dân tăng cao đặc biệt vào dịp tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng huyện Kon Plông (12/10/1974 - 12/10/2024), tổ chức “Tuần lễ Múa Việt Nam - Vietnam Dance Week 2024”, ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10)...
- Tính chung 10 tháng năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 32.344 tỷ đồng, tăng 14,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:
+ Doanh thu bán lẻ hàng hóa 10 tháng năm 2024 ước đạt 26.993 tỷ đồng, chiếm 83,46% trong tổng số, tăng 13,68% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 13,21%; Hàng may mặc, tăng 14,96%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 11,63%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 11,23%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 15,24%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 10,85%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 18,63%; Xăng, dầu các loại, tăng 11,27%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 22,24%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 25,12%; Hàng hoá khác, tăng 9,39%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 14,39%.
+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 10 tháng năm 2024 ước đạt 3.255,04 tỷ đồng, chiếm 10,06% trong tổng số và tăng 15,09% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 212,58 tỷ đồng, tăng 26,57%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.039,12 tỷ đồng, tăng 14,35%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 3,15 tỷ đồng, tăng 39,10% so với cùng kỳ năm trước.
+ Doanh thu dịch vụ khác 10 tháng năm 2024 ước đạt 2.096 tỷ đồng, chiếm 6,48% trong tổng số, tăng 19,04% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao như: dịch vụ kinh doanh bất động sản, tăng 8,88%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 21,79%; dịch vụ giáo dục và đào tạo, tăng 19,68%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tăng 19,86%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, tăng 19,99%; dịch vụ khác, tăng 20,18%...
6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi
Tình hình giao thông, vận tải trên địa bàn tỉnh trong tháng 10 duy trì được sự tăng trưởng và ổn định hơn so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, nguyên nhân là do nhu cầu đi lại của người dân tăng nhất là nhu cầu đi khám chữa bệnh ở ngoài tỉnh. Hoạt động vận chuyển hàng hóa vẫn được duy trì ổn định và tăng nhẹ so với tháng trước, nguyên nhân một là do một số sản phẩm nông nghiệp đang mùa thu hoạch như cao su, lúa, sắn, … nên hoạt động vận tải phục vụ ngành nông nghiệp tăng, mặt khác đây là tháng bắt đầu mùa khô nên hoạt động vận chuyển phục vụ ngành xây dựng tăng. Tính chung 10 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 13,69% và luân chuyển tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 10,44% và luân chuyển tăng 11,12%.
(1) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 10 năm 2024
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 10 năm 2024 đạt 272,01 tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 15,74% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 78,43 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,79%), so với cùng kỳ năm trước tăng 13,74%; Vận chuyển ước đạt 1.104 nghìn lượt khách, tăng 12,57%; Luân chuyển ước đạt 147.939 nghìn lượt khách.km, tăng 13,35%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 174,59 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,72%), so với cùng kỳ năm trước tăng 16,39%; Vận chuyển ước đạt 1.726 nghìn tấn, tăng 13,53%; Luân chuyển ước đạt 89.829 nghìn tấn.km, tăng 14,54%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 2,0 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 14,79%.
- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 16,99 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,69%.
(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính 10 tháng năm 2024
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 10 tháng năm 2024 đạt 2.541 tỷ đồng, tăng 15,19% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 731 tỷ đồng, tăng 20,94%; Vận chuyển ước đạt 10.452 nghìn lượt khách, tăng 13,69%; Luân chuyển ước đạt 1.371.429 nghìn lượt khách.km, tăng 13,3%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.632 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,88%; Vận chuyển ước đạt 16.492 nghìn tấn, tăng 10,44%; Luân chuyển ước đạt 840.203 nghìn tấn.km, tăng 11,12%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 19 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 20,25%.
- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 159 tỷ đồng, tăng 13,72%.
7. Giá cả thị trường
7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Trong tháng 10 năm 2024, giá cả thị trường ở địa phương vẫn ổn định, không có biến động lớn về giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và dịch vụ, không có hiện tượng ghim hàng tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 năm 2024 tăng 0,52% so với tháng trước, tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,75% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2024, CPI tăng 2,50% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2024 tăng 0,52% (khu vực thành thị tăng 0,49%; khu vực nông thôn tăng 0,55%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 09 nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,5%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,19%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,96%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,93%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14%; nhóm giao thông tăng 0,93%; nhóm giáo dục tăng 0,08%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,8%. Có 02 nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01% và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,08%.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
(1) Chín nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,5%)
+ Lương thực (+0,71%)
Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,71%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,55% (giá gạo tẻ thường tăng 0,58%, giá gạo tẻ ngon tăng 0,54%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng; nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 1,81%, trong đó giá ngô tăng 1,17%, giá bột mì tăng 1,35%, giá khoai lang tăng 3,5%, nguyên nhân là do sản phẩm trái vụ và nhu cầu tiêu dùng tăng.
+ Thực phẩm (+0,39%)
Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,39%, chủ yếu là do nhóm thịt gia súc tăng 0,33%, trong đó thịt lợn tăng 0,6%, thịt gia súc đông lạnh tăng 0,94%; nhóm thịt gia cầm tăng 0,74%, trong đó giá thịt gà tăng 0,75%, giá thịt gia cầm khác tăng 0,67%. Nhóm dầu mỡ và chất béo tăng 0,36%, trong đó mỡ động vật tăng 2,22% là do tăng theo giá thịt lợn. Riêng nhóm thủy sản tươi sống giảm 1,47% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh giảm 1,85%, nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh giảm 1,08%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung tăng nên làm cho giá giảm.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 2,61%, trong đó giá đỗ quả tươi tăng 8,59%, giá rau tươi khác tăng 4,83%, giá rau muống tăng 6,08%, giá cà chua tăng 3,19%, nguyên nhân là do các sản phẩm trái vụ. Ở chiều ngược lại, giá bắp cải giảm 2,71%, giá măng tươi giảm 5,21%, nguyên nhân là do các sản phẩm đang mùa thu hoạch. Nhóm quả tươi, chế biến tăng 1,34%, trong đó giá xoài tăng 2,74%, giá quả có múi tăng 1,39%, giá chuối tăng 1,8%.
Nhóm đường mật tăng 1,02% là do giá đường tăng 1,8%; nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,28% là do giá sữa bột trẻ em tăng 0,9%, giá sữa bột người lớn tăng 0,57%; nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 0,29%, trong đó giá cà phê bột tăng 1,5%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng.
+ Ăn uống ngoài gia đình (+0,69%)
Chỉ số nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,69% là do giá ăn ngoài gia đình tăng 0,82%, giá uống ngoài gia đình tăng 0,11%, nguyên nhân chủ yếu là các cơ sở kinh doanh tăng thêm phí phục vụ.
- Đồ uống và thuốc lá (+0,19%)
Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,19%, chủ yếu là do giá rượu các loại tăng 0,85%, trong đó rượu mạnh tăng 1,69%, nguyên nhân chủ yếu là rượu trắng địa phương tăng, do ảnh hưởng giá gạo tăng.
- May mặc, mũ nón và giày dép (+0,96%)
Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,96%, là do nhóm quần áo may sẵn tăng 0,94%, trong đó giá quần áo cho nam (13 tuổi trở lên) tăng 0,45%, giá quần áo cho trẻ em gái (13 tuổi trở lên) tăng 1,55%, giá quần áo cho trẻ sơ sinh tăng 2,09%; nhóm may mặc khác tăng 0,85%, trong đó giá bít tất các loại tăng 1,27%; giá mũ, nón tăng 1,01%. Nguyên nhân chính là do nhu cầu mua sắm tăng nên giá tăng theo theo quy luật cung cầu.
- Nhà ở và vật liệu xây dựng (+0,51%)
Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,51%, nguyên nhân chính là do nhóm nhà ở thuê tăng 0,78%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 0,77%; giá gas tăng 1,62%, tăng 6000 đồng/12kg từ ngày 01/10/2024; giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước tăng 1,0%; giá nước sinh hoạt tăng 0,73% là do nhu cầu tiêu dùng nước tăng nên giá bình quân tăng. Ở chiều ngược lại giá điện sinh hoạt giảm 0,84%, do nhu cầu tiêu dùng giảm nên giá bình quân giảm.
- Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,93%)
Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,93%, tăng chủ yếu là do giá giường, tủ, bàn ghế tăng 1,03%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 0,92%, trong đó giá đồ nhôm, inox tăng 1,4%; giá đồ nhựa và cao su tăng 2,27%, trong đó giá đồ dùng bằng nhựa tăng 2,59%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,57%, trong đó giá kem đánh răng tăng 2,58%; giá vật phẩm tiêu dùng khác tăng 2,23%, trong đó giấy vệ sinh tăng 4,05%, giấy ăn tăng 2,54%; giá sửa chữa thiết bị gia đình tăng 1,48%, trong đó giá sửa chữa thiết bị có động cơ tăng 3,26%.
- Thuốc và dịch vụ y tế (+0,14%)
Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14%, là do giá thuốc các loại tăng 0,9%, trong đó giá thuốc giảm đau, hạ sốt tăng 0,72%, giá thuốc chống dị ứng tăng 2,51%, giá thuốc tim mạch tăng 1,39%, giá thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 1,48%.
- Giao thông (+0,93%)
Chỉ số nhóm giao thông tăng 0,93%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu tăng 1,08%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước giá xăng tăng 1,0%, giá dầu diezel tăng 2,27%; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 2,66%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 32,75%; giá phụ tùng tăng 2,23%, trong đó phụ tùng xe đạp tăng 5,48%, phụ tùng xe máy tăng 3,47%.
- Giáo dục (+0,08%)
Chỉ số nhóm giáo dục tăng 0,08% là do nhóm dịch vụ giáo dục tăng 0,11%, nguyên nhân chính là do học phí giáo dục tăng 1,07%, là do giá học phí mầm non tư thục tăng 5%.
- Hàng hóa và dịch vụ khác (+0,8%)
Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,8%, tăng chủ yếu là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 1,16%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 2,08%, giá đồ trang sức tăng 3,54% là do tăng theo giá vàng.
(2) Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
- Bưu chính viễn thông (-0,01%)
Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%, là do nhóm thiết bị điện thoại giảm 0,03%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 2,4%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động thế hệ cũ.
- Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,08%)
Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,08% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,37%, trong đó giá ti vi màu giảm 0,39%; giá chụp, in tăng 1,24%.
So với tháng 10/2023, CPI tháng 10/2024 tăng 2,93%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 08 nhóm tăng giá và 03 nhóm giảm giá.
Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,86%, tăng chủ yếu là do nhóm lương thực tăng 8,06%, trong đó giá gạo tăng 12,73% là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng, nhóm thực phẩm tăng 2,43%, ăn uống ngoài gia đình tăng 1,14%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,73%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 4,77%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,85%, tăng chủ yếu là do giá gas tăng 3,89%, điện sinh hoạt tăng 2,29%, riêng giá dầu hỏa giảm 20,23%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,95%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,27%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng 11,81%; nhóm giáo dục tăng 4,78% là do học phí đại học và học phí mầm non tư thục tăng; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,96%, chủ yếu là do giá bảo hiểm y tế tăng 30%.
Các nhóm giảm là nhóm giao thông giảm 4,47% là do giá xăng giảm 13,54%, giá dầu diesel giảm 21,15%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,44%, giảm chủ yếu là do mặt hàng điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,14%.
So với tháng 12/2023, CPI tháng 10/2024 tăng 2,75%, trong đó có 08 nhóm hàng tăng giá và 02 nhóm giảm giá.
Các nhóm tăng giá là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,91%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,52%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,91%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,31%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,64%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,36%; nhóm giáo dục tăng 4,78%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,26%.
Nhóm giảm giá là nhóm giao thông giảm 1,7%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 4,28%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,29%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2024 tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.
Các nhóm tăng giá:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,11%, trong đó giá lương thực tăng 10,1% (giá gạo tăng 14,36% do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng); giá bột mì và ngũ cốc khác tăng 7,18%; giá thủy sản tươi sống tăng 2,33%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 2,94%; giá các loại đậu và hạt tăng 4,76%; giá đường, mật tăng 5,78%; giá sữa, bơ, pho mai tăng 3,56%; giá chè, cà phê, ca cao tăng 3,94%, trong đó cà phê bột tăng 20,02% do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng. Ở chiều ngược lại, giá thịt gia súc giảm 0,95% (riêng giá thịt lợn giảm 1,42%); giá trứng các loại giảm 0,81%; giá dầu mỡ và chất béo khác giảm 1,55%; giá quả tươi và chế biến giảm 0,48%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,55%, là do giá thuốc hút tăng 2,13%; giá rượu bia tăng 3,35%, trong đó giá rượu tăng 4,93%, giá bia tăng 2,38%, là do nhu cầu tiêu dùng trong các dịp Lễ, Tết Nguyên đán tăng.
- Nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 3,55%, trong đó giá vải các loại tăng 3,62%, giá quần áo may sẵn tăng 3,38%, giá giầy dép tăng 3,61%, dịch vụ may mặc tăng 1,93% là do nhu cầu tiêu dùng tăng cao thời điểm Tết Nguyên đán, các dịp nghỉ Lễ đầu năm và mua sắm trang phục cho học sinh chuẩn bị đón năm học mới.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,08%, tăng chủ yếu là do giá nhà ở thuê tăng 6,74%, do các năm trước có giảm giá để hỗ trợ ảnh hưởng dịch COVID-19 nay giá tăng ổn định trở lại; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,1%; giá điện sinh hoạt tăng 5,95% là do ảnh hưởng điều chỉnh tăng giá điện sinh hoạt.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,49% là do giá đồ điện tăng 2,54%; giá giường, tủ, bàn ghế tăng 2,45%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 1,44%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 2,3%; giá dịch vụ trong gia đình tăng 6,76%; giá vật phẩm tiêu dùng khác tăng 2,7%. Ở chiều ngược lại giá tủ lạnh giảm 3,9%, giá máy giặt giảm 0,97%.
- Nhóm thuốc và thiết bị y tế tăng 10,01%, chủ yếu là do giá dịch vụ y tế tăng 11,55%; giá thuốc các loại tăng 3,97%; giá dụng cụ y tế tăng 1,55%.
- Nhóm giao thông tăng 0,47%, chủ yếu là do giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 15,6%, trong đó vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 368,12%, là do tăng giá vé các dịp Lễ, Tết vận chuyển hành khách bằng các loại phương tiện để bù chiều vắng hoặc ít khách; giá phụ tùng tăng 8,33%. Ở chiều ngược lại, giá nhiên liệu giảm 1,83%, trong đó giá xăng giảm 1,85%, giá dầu dizel giảm 3,45%.
- Nhóm giáo dục tăng 1,99%, trong đó giá các loại văn phòng phẩm tăng 3,99% là do giá sản phẩm từ giấy tăng 10,16%; giá dịch vụ giáo dục tăng 1,4% là do giá học phí đại học tăng.
- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,87%, tăng chủ yếu là do giá đồ dùng cá nhân tăng 7,42%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 10,41%, giá đồ trang sức tăng 22,77% do tăng theo giá vàng; nhóm dịch vụ khác tăng 18,66%, là do giá bảo hiểm y tế tăng 24,15%.
Các nhóm hàng giảm giá:
- Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 5,48% là do giá các loại điện thoại di động thế hệ cũ giảm 14,96%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 21,22%.
- Nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 2,32%, giảm chủ yếu là do giá thiết bị văn hóa giảm 11,99%, trong đó giá tivi màu giảm 12,35%. Ở chiều ngược lại, giá khách sạn nhà hàng tăng 5,28%, trong đó giá khách sạn tăng 4,38%; giá hoa, cây cảnh tăng 4,79%.
7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh
- Chỉ số giá vàng (+4,12%)
Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 10/2024 tăng 4,12% so với tháng trước; tăng 15,48% so với tháng 12/2023; tăng 22,44% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 20,5%.
- Chỉ số giá đô la Mỹ (+0,33%)
Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 10/2024 giao dịch bình quân quanh mức 24.984 VND/USD, tăng 0,33% so với tháng trước; tăng 2,05% so với tháng 12/2023; tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 4,89%.
8. Một số tình hình xã hội
8.1. Tình hình đời sống dân cư
Trong tháng 10, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả tích cực, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng GRDP 9 tháng năm 2024 đạt 7,34%, đứng thứ 27 cả nước và cao nhất trong khu vực Tây Nguyên. Các chế độ, chính sách về an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; cơ sở vật chất giáo dục được quan tâm, đầu tư; tình hình dịch bệnh tương đối ổn định, kiểm soát tốt; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Bên cạnh những kết quả đạt được, còn có một số hạn chế và khó khăn, thách thức như: Dịch bệnh lở mồm long móng trâu bò, dịch tả lợn Châu Phi vẫn còn xảy ra ở một số địa phương; vi phạm Luật lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn ra, nhất là trên lâm phần của Ủy ban nhân dân các xã và diện tích rừng giao khoán cho các hộ gia đình quản lý. Biên chế giáo viên còn thiếu, khó khăn trong triển khai chương trình giáo dục, đặc biệt là dạy học 2 buổi/ngày. Mưa lũ, động đất gây ra thiệt hại về tài sản và công trình công cộng tại một số địa phương. Tai nạn giao thông chưa được kiềm chế, tăng ở cả 03 tiêu chí. Tình hình cháy nổ tăng cao so với cùng kỳ
8.2. Tình hình nổi bật, bất thường về xã hội
a) Về y tế
Trong tháng, ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, đảm bảo tốt công tác phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn; hoạt động tiêm chủng mở rộng được duy trì thường xuyên tại 100% xã, phường, thị trấn. Ghi nhận 01 trường hợp ngộ độc thực phẩm do ăn uống không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
(1) Tình hình dịch bệnh tháng 9 năm 2024
- Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, ghi nhận 11 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 5, Đăk Glei 3, Sa Thầy 2, Ia H’Drai 1), tăng 3 ca so với tháng trước và giảm 14 ca so với tháng 9/2023. Luỹ tích đến 30/9/2024, không có tử vong, ghi nhận 31 ca mắc, giảm 81 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 6 ca mắc mới (Đăk Glei 1, Kon Rẫy 4, Kon Plông 1), giảm 3 ca so với tháng trước và tăng 2 ca so với tháng 9/2024. Luỹ tích đến 30/9/2024, không có tử vong, ghi nhận 125 ca mắc, giảm 4 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 10 ca mắc mới (Đăk Glei 3, Tu Mơ Rông 5, Kon Rẫy 2), bằng so với tháng trước và tăng 8 ca so với tháng 9/2023. Luỹ tích đến 30/9/2024, không có tử vong, ghi nhận 165 ca mắc, tăng 127 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 40 ổ dịch mới, giảm 2 ổ dịch so với tháng trước và bằng so với tháng 9/2023. Lũy tích đến 30/9/2024, ghi nhận 135 ổ dịch, tăng 28 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng, ghi nhận 65 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 28, Đăk Hà 3, Đăk Tô 4, Ngọc Hồi 20, Đăk Glei 2, Kon Rẫy 3, Kon Plông 1, Sa Thầy 4), giảm 23 ca so với tháng trước và giảm 30 ca so với tháng 9/2023. Luỹ tích đến 30/9/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 341 ca mắc7, tăng 38 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Viêm não Nhật Bản: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích đến 30/9/2024, không có tử vong, ghi nhận 2 ca mắc tại thành phố Kon Tum, giảm 1 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Viêm gan vi rút A: Trong tháng, ghi nhận 1 ca mắc mới tại huyện Kon Plông, bằng so với tháng trước và bằng so với tháng 9/2023. Lũy tích đến 30/9/2024, không có tử vong, ghi nhận 2 ca mắc (Đăk Hà 1, Kon Plông 1), giảm 2 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Bệnh sởi: Trong tháng, ghi nhận 3 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 1, Đăk Hà 1, Sa Thầy 1), tăng 2 ca so với tháng trước và tăng 3 ca so với tháng 9/2023. Lũy tích đến 30/9/2024, không có tử vong, ghi nhận 4 ca mắc (thành phố Kon Tum 1, Đăk Hà 2, Sa Thầy 1), tăng 4 ca so với cùng kỳ năm trước.
- Bệnh dại: Trong tháng, ghi nhận 02 ổ dịch Dại trên động vật tại huyện Ia H’Drai (Ia Dom 01, Ia Tơi 01), tăng 02 ổ dịch so với tháng trước, tăng 02 ổ dịch so với tháng 9/2023; lũy tích đến 30/9/2024, ghi nhận 05 ổ dịch Dại trên động vật (Sa Thầy 03, Ia H’Drai 02). Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới dại trên người; lũy tích đến 30/9/2024, không ghi nhận trường hợp mắc và tử vong do bệnh dại trên người. - Bệnh Lao: Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 33 ca mắc mới, tăng 5 ca so với tháng trước và giảm 34 ca so với tháng 9/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 30/9/2024, 01 ca tử vong, ghi nhận 272 ca mắc, giảm 127 ca so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Lao phổi AFB (+): 192; lao phổi AFB (-): 21; lao ngoài phổi: 59. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 30/9/2024: ghi nhận 2.581 ca; trong đó tử vong 26 ca, hoàn thành điều trị 2.323 ca, đang được quản lý điều trị 232 ca.
- Bệnh Phong: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 30/9/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 1 ca mắc tại huyện Đăk Glei, bằng so với cùng kỳ năm trước. Quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên): Đang quản lý 49 bệnh nhân; bệnh nhân cũ điều trị nội trú còn lại đầu tháng 13, bệnh nhân đến khám (kê đơn) trong tháng 13 lượt, bệnh nhân nhập viện trong tháng 10, bệnh nhân xuất viện trong tháng 08, bệnh nhân hiện còn đang điều trị nội trú 15.
(2) Phòng chống HIV/AIDS
- Trong tháng số người ghi nhận nhiễm HIV là 04 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật 1, xét nghiệm nơi khác 1, bệnh nhân HIV từ nơi khác chuyển về tiếp tục điều trị ARV 2), bệnh nhân HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 1 người.
- Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS: 608 người. Trong đó tử vong 213 (AIDS 200, HIV 13), còn sống 395 (đang quản lý và tiếp cận được 260). Tổng số người nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 306, trong đó còn sống 106.
- Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 30/9/2024: 210 (8 trẻ em), điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 14. Điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con 2 bệnh nhân.
(3) Bệnh không lây nhiễm (BKLN)
- Tổ chức giám sát công tác dự phòng, quản lý điều trị một số BKLN phổ biến tại một số trạm Y tế thuộc huyện Kon Rẫy.
- Tổ chức khám khảo sát tật khúc xạ học đường đợt II/2024 tại 3 trường (THCS Nguyễn Tất Thành, thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy; THCS Thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi; THCS Đăk Long, huyện Đăk Glei), tổng số khám 2.499 học sinh, số mắc tật khúc xạ 324 học sinh, tỷ lệ mắc tật khúc xạ là 12,97%.
- Bệnh nhân tâm thần mới phát hiện trong tháng 2 bệnh nhân (Động kinh). Tổng số bệnh nhân mới từ 01/01 đến 30/09/2024: 29 bệnh nhân (Tâm thần phân liệt: 07 bệnh nhân; Động kinh: 21 bệnh nhân; Trầm cảm: 01 bệnh nhân).
(4) Khám chữa bệnh
Đảm bảo công tác khám, thu dung và điều trị bệnh nhân; tiếp tục thực hiện các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh điều trị nội trú, ngoại trú. Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Hồi triển khai khảo sát nhu cầu chuyển giao kỹ thuật, đào tạo, tập huấn cho đội ngũ nhân viên y tế tại Bệnh viện Sê Kông (Lào); Bệnh viện Đa khoa tỉnh triển khai thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ, chuyên giao kỹ thuật chuyên môn cho tỉnh Ắt-ta-pư (Lào).
Tổng số lượt khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập trong tháng 79.368 lượt người, giảm 3,2% so với tháng trước và số lượt điều trị nội trú 6.936 lượt người, giảm 4,4% so với tháng trước; công suất sử dụng giường bệnh kế hoạch bình quân của các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện và phòng khám đa khoa khu vực đạt 60,6% (tháng trước 65,3%), trong đó tuyến tỉnh 80,1% (tháng trước 80,7%), tuyến huyện 36,4% (tháng trước 44,3%) và phòng khám đa khoa khu vực 47,6% (tháng trước 47,6%).
b) Về văn hóa
UBND tỉnh phối hợp Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam tổ chức thành công Tuần lễ Múa Việt Nam 2024 - Vietnam Dance Week 2024 với chủ đề “Dòng sông ánh sáng”, Tuần lễ Múa Việt Nam là sự kiện nghệ thuật múa thường niên lớn, có phạm vi toàn quốc, mang tính quốc gia và quốc tế. Trong lần thứ II diễn ra, Ban Tổ chức lựa chọn tỉnh Kon Tum là nơi đăng cai với mong muốn tạo không gian biểu diễn ấn tượng, đậm chất Tây Nguyên.
c) Về thể dục thể thao
Trên địa bàn tỉnh, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì; Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng Nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng. Công tác xã hội hóa các hoạt động thể dục thể thao được quan tâm.
8.3. Tình hình bất thường về thiên tai, hỏa hoạn
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh Kon Tum chịu ảnh hưởng của Áp cao lục địa tiếp tục suy yếu và dịch chuyển dần ra phía Đông, rãnh áp thấp ở phía Bắc suy yếu và mờ dần đi. Trên cao, áp cao cận nhiệt đới tiếp tục lấn sang Tây, sau có cường độ ổn định gây mưa, có nơi có mưa vừa đến mưa to và dông tại hầu hết các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Xảy ra 02 vụ cháy nhà, cơ sở sản xuất trên địa bàn thành phố Kon Tum, không gây thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 10,5 triệu đồng.
Tình hình thiệt hại thiên tai kỳ tháng 10 (từ ngày 26/9 tới ngày 25/10) năm 2024 trên địa bàn tỉnh Kon Tum xảy ra 1 vụ thiên tai, do mưa lớn tại các huyện Kon Rẫy, Tu Mơ Rông, Đăk Glei, Sa Thầy và Thành phố Kon Tum. Gây thiệt hại 03 căn nhà ở; thiệt hại khoảng 8,08 ha diện tích lúa; sạt lỡ một số điểm công trình giao thông tại các huyện nói trên; và sạt lỡ tại các công trình thủy lợi... Ước tính thiệt hại trong kỳ tháng 10 khoảng 786 triệu đồng, giảm 1.780 triệu đồng so với tháng trước. Tính từ đầu năm tới thời điểm hiện tại thiệt hại do thiên tai gây ra ước khoảng 13.786 triệu đồng, giảm 96.609 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2023.
8.4. Tình hình vi phạm môi trường
- Trong tháng, phát hiện 01 vụ Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm trên địa bàn huyện Ia H'Drai.
8.5. Tình hình trật tự an toàn xã hội
- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 32 vụ (tăng 13 vụ so với tháng trước). Hậu quả, thiệt hại: 04 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 830 triệu đồng. Địa bàn: TP Kon Tum 19 vụ; Sa Thầy 03 vụ; Đăk Hà 02 vụ; Đăk Tô 02 vụ; Kon Plông 02 vụ; Ngọc Hồi 01 vụ; Đăk Glei 01 vụ; Kon Rầy 01 vụ; Ia H’Drai 01 vụ.
- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 04 vụ (tăng 03 vụ so với tháng trước), cụ thể: Vận chuyển hàng cấm 01 vụ; Trốn thuế 01 vụ; Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí 01 vụ; Tham ô tài sản 01 vụ. Địa bàn: TP Kon Tum 02 vụ; Sa Thầy 01 vụ; Đăk Hà 01 vụ.
- Phạm tội về ma tuý: Phát hiện 08 vụ (tăng 03 vụ so với tháng trước), cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 02 vụ; Vận chuyển +Tàng trữ trái phép chất ma túy 01 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng + Tàng trữ trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng + Tàng trữ + Mua bán trái phép chất ma túy 02 vụ. Thu giữ: 0,764g Heroin; 5,165g ma túy tổng hợp. Địa bàn: TP Kon Turn 03 vụ; Ngọc Hồi 02 vụ; Đăk Hà 02 vụ; Kon Rẫy 01 vụ.
- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 09 vụ TNGT (01 vụ ít nghiêm trọng, 08 vụ nghiêm trọng) làm 08 người chết, 09 người bị thương. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng: 155,5 triệu đồng. So với tháng trước: tăng 01 vụ, tăng 04 người chết, tăng 01 người bị thương.
- Tình hình cháy, nổ: Xảy ra 02 vụ cháy nhà, cơ sở sản xuất tại TP Kon Tum (tăng 01 vụ so với tháng trước). Thiệt hại về tài sản khoảng 10,5 triệu đồng. Nguyên nhân: Sơ suất trong việc sử dụng lửa 01 vụ; do sự cố hệ thống điện 01 vụ.
- Tình hình sự cố, tai nạn: Không xảy ra (giảm 01 vụ so với tháng trước).
[1] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư
[2] Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum.
Xem và tải về:
Cục Thống kê