• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Thứ Tư, 14/08/2024 22:19
Thông tin kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum tháng 7 năm 2024
Cập nhật: Thứ Hai, 29/07/2024 08:07

 

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tháng 7 năm 2024, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Kon Tum diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ trọng tâm là tập trung gieo trồng và chăm sóc cây lúa vụ mùa và đảm bảo tiến độ gieo trồng các loại cây hằng năm khác. Công tác phòng chống dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm được giám sát chặt chẽ. Sản xuất lâm nghiệp duy trì ổn định; công tác quản lý, bảo vệ rừng tiếp tục được quan tâm.

1.1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

Cây hàng năm

Tính đến ngày 15/7/2024 tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa năm 2024 trên địa bàn tỉnh là 60.799 ha, tăng 0,99% (+597,2 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích một số loại cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:

Cây lúa gieo trồng được: 13.239 ha, tăng 1,76% (+228,6 ha). Diện tích tăng là do thời tiết thuận lợi nên người dân tranh thủ xuống giống cho kịp thời vụ.

Cây ngô gieo trồng được: 3.562 ha, giảm 8,53% (-331,6 ha). DTGT ngô  giảm là do người dân chuyển đổi sang cây trồng khác như mía, cây ăn quả.

Cây sắn gieo trồng được: 38.452 ha, giảm 0,27% (-106,3 ha).

Cây mía gieo trồng được: 1.521 ha, tăng 36,41% (+ 406,6 ha). Diện tích mía tăng là do nhà máy đường kết hợp với người dân khôi phục lại diện tích mía đã bỏ trống từ các năm trước, bên cạnh đó thực hiện theo kế hoạch của UBND tỉnh phát triển vùng nguyên liệu mía đến hết năm 2024 là 2.000 ha nên các tổ chức, cá nhân và nhà máy đường đã ký kết hợp đồng mở rộng DTGT mía.

Rau các loại gieo trồng được: 1.141 ha, tăng 1,88% (+21,6 ha).

Đậu các loại gieo trồng được: 213 ha, giảm 4,05% (-9 ha).

Khoai lang gieo trồng được: 518 ha, tăng 11,64% (+54 ha). Diện tích tăng là do người dân mở rộng DTGT trên đất tái canh cà phê.

Trong tháng Bảy, các cơ quan chuyên môn chú trọng công tác phòng trừ sâu bệnh gây hại trên cây trồng. Hướng dẫn người dân thường xuyên theo dõi tình hình thời tiết, công tác dự báo của Đài khí tượng để tổ chức tháo dỡ các đập thời vụ để đảm bảo thoát nước, chống ngập úng.

Cây lâu năm

- Tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh ước tính đến thời điểm 31/7/2024 là 132.505 ha, tăng 7,17% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, một số cây trồng chủ lực của tỉnh (cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả) đang sinh trưởng và phát triển tốt. Tổng diện tích cây cà phê đạt 30.182 ha, tăng 2,98%; Diện tích cây cao su đạt 79.347 ha, tăng 1,99% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng diện tích cây ăn quả là 14.913 ha, tăng 47,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó cây Mắc ca khoảng 3.640 ha, tăng 45,05%.  Diện tích cây ăn quả tăng cao là do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nhiều nhóm cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế như chuối, sầu riêng, chanh leo, mắc ca, mít… Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường ổn định nên nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung vào những nông sản có giá trị để xuất khẩu như chanh leo, chuối, sầu riêng… đồng thời các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại, do đó nhiều nông dân và doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi từ cây hàng năm hiệu quả không cao sang trồng cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

b) Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh ước tính đến thời điểm 31/7/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

- Tổng đàn trâu 24.378 con, tăng 1,4% (+343 con). Số con xuất chuồng là 1.699 con, tăng 1,7% (+29 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 461 tấn, tăng 1,7% (+7,5 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn bò 88.745 con, tăng 4,6% (+3.885 con). Số con xuất chuồng là 21.487 con, tăng 2,2% (+462 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 3.896 tấn, tăng 2,2% (+85 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn lợn 180.350 con, tăng 12,2% (+19.539 con). Số con xuất chuồng là 184.945 con, tăng 4,9% (+8.671 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 14.179 tấn, tăng 4,9% (+660 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Đàn lợn tăng là do giá cả ổn định nên người dân tăng đàn, thêm vào đó, hiện nay mô hình nuôi gia công đang phát triển trên địa bàn tỉnh đã góp phần ổn định cho ngành chăn nuôi của tỉnh.

- Tổng đàn gia cầm 1.915.000 con, tăng 5,7% (+103.100 con), trong đó: đàn gà 1.704.000 con, tăng 5,8% (+93.000 con). Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 3.581 tấn, tăng 5,5% (+185,2 tấn). Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 3.211 tấn, tăng 5,4% (+163,3 tấn). Tổng đàn gia cầm tăng cả về số lượng đầu con và sản phẩm là do hiện nay chăn nuôi gia cầm đang đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chăn nuôi các loại con khác, do thời gian thu sản phẩm nhanh, giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ đã đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi, chủ động phòng trừ dịch bệnh kịp thời, tạo thu nhập ổn định cho người chăn nuôi sản xuất. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đang phát triển thêm nhiều cơ sở chăn nuôi gà với quy mô lớn.

1.2. Lâm nghiệp

Trong tháng 7/2024, ngành Kiểm lâm tiếp tục tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Thường xuyên tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng.

Tính đến ngày 15/7/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 10 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 6,1 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Công tác trồng rừng: Tính đến ngày 15/7/2024 diện tích rừng trồng mới tập trung trên địa bàn tỉnh là 1.154 ha, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, diện tích tăng là do thời tiết thuận lợi nên tập trung triển khai trồng rừng.

Công tác khai thác lâm sản: Ước tính đến thời điểm 31/7/2024, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 83.450 m3, tăng 1,8% (+1.442 m3) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác là 168.600 ster, tăng 1,6% (+2.600 ster) so với cùng kỳ năm trước.

1.3. Thuỷ sản

Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.

- Ước tính đến 31/7/2024 diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh là 978,4 ha, tăng 15,0% (+127,3 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh là 4,2 ha, chiếm 0,43%; Nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến là 974,2 ha chiếm 99,57%. Diện tích nuôi chủ yếu là cá trắm, cá chép, cá rô phi và cá diêu hồng, các loại cá này phù hợp với địa bàn tỉnh.

- Ước sản lượng thủy sản 7 tháng năm 2024 tỉnh Kon Tum đạt 4.137 tấn, tăng 6,96% (+269 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 1.385 tấn chiếm 33,48%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 2.752 tấn chiếm 66,52%.

+ Sản phẩm thủy sản khai thác: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 1.385 tấn, tăng 6,54% (+85 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản khai thác tăng chủ yếu là do số lượng cá khai thác tại các đập, hồ chứa, sông …tăng lên, bên cạnh đó các đơn vị đấu thầu các đập, hồ thuỷ điện, thuỷ lợi trên địa bàn đã thả giống thuỷ sản nhằm tăng nguồn lợi thuỷ sản để khai thác.

+ Sản phẩm thủy sản nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 2.752 tấn, tăng 7,17% (+184 tấn) so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong 7 tháng năm 2024 của tất cả các loại điều tăng. Nguyên nhân sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, bên cạnh đó số lồng/bè nuôi trồng thuỷ sản đến nay cũng tăng cao so với cùng kỳ năm trước. 

2. Sản xuất công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh trong tháng 7 và 7 tháng  năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá cao so cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất chung toàn ngành công nghiệp 7 tháng  năm 2024 tăng 9,89%. Hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng; một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, sản xuất bàn, ghế, chế biến gỗ... do năm nay tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn, các doanh nghiệp nhận nhiều đơn hàng, một số doanh nghiệp đang mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao công suất máy móc để đáp ứng sản xuất. Một số ngành như sản xuất đường, tinh bột sắn, chế biến gỗ nguồn cung cấp nguyên liệu tương đối đảm bảo, tình trạng thiếu hụt nguyên liệu không còn xảy ra. Ngành sản xuất, phân phối điện; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định.

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7 năm 2024 ước tính tăng 11,93% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng cao nhất ở ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải (tăng 19,83%), do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy. Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 11,54%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang tập trung thi công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,62%, trong đó tăng cao ở một số ngành như chế biến gỗ; sản xuất tinh bột sắn; sản xuất giường, tủ, bàn ghế; sản xuất cấu kiện kim loại... do nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định... Ngành sản xuất phân phối điện tăng 11,26% do điều tiết hoạt động chung của ngành điện.

So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7 ước tính tăng 3,43%. Trong đó ngành khai thác khoáng sản tăng 8,36%,  công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,47%, chủ yếu tăng ở ngành chế biến thực phẩm (tăng 8,28%), đến tháng 7 một số nhà máy tinh bột sắn bắt đầu thu mua nguyên liệu và hoạt động trở lại sau thời gian tạm nghỉ thời vụ, lượng tinh bột sắn sản xuất tăng cao so tháng trước. Ngành sản xuất phân phối điện tăng 3,07% do hiện tại trên địa bàn tỉnh mưa nhiều hơn, lượng nước trên các hồ thủy điện luôn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động ổn định. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.

Tính chung 7 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 9,89% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 11,61%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,04%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,34%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 14,10%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II đều tăng so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 11,61%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 13,13%; Sản xuất trang phục tăng 9,55%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,75%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 18,45%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 9,05%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 7,53%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7,35%. Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 6,85%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,21%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,30%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,34%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 10,68%.

2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp

Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 7 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 42 ngàn m3, tăng 12,34%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 5.270 tấn, tăng 12,95%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 19,00 triệu viên, tăng 8,69%; điện sản xuất 253,53 triệu Kwh, tăng 9,68%.

Tính chung 7 tháng năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 1.778,5 triệu Kwh tăng 8,76%; Đá xây dựng khác đạt 273,8 ngàn m3 tăng 11,84%; Tinh bột sắn đạt 124.881 tấn tăng 5,19%; Đường RE đạt 10.271 tấn, tăng 44,01%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1.038 ngàn cái, tăng 9,81%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 20.589 m3, tăng 18,45%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 130,65 triệu trang tăng 9,05%; Cồn béo công nghiệp đạt 6.382 tấn tăng 7,38%; Phân vi sinh đạt 752 tấn tăng 9,14%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.139 tấn, tăng 7,35%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 115,33 triệu viên, tăng 8,51%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 229,41 nghìn viên, tăng 13,03%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 17.799 tấn, tăng 9,59%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 146,19 nghìn chiếc, tăng 9,40%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 66,05 nghìn chiếc, tăng 12,41%...

2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 7/2024 giảm 0,12% so với tháng trước và tăng 5,53% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 0,78%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 3,35%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 2,54%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,23%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,90%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 12,38% so với cùng kỳ năm trước.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

Trong tháng 7 năm 2024 (tính đến ngày 20/7/2024) toàn tỉnh có 17 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 79,8 tỷ đồng, tăng 6,25% về số doanh nghiệp và tăng 2,04% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 05 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 02 doanh nghiệp đã giải thể; 05 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.

Tính chung 7 tháng năm 2024 (tính đến ngày 20/7/2024) toàn tỉnh có 182 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 15,19% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 1.441 tỷ đồng, giảm 28,53% so với cùng kỳ năm trước. Có 36 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 32,08% so với cùng kỳ năm trước; 170 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 30,77% so với cùng kỳ năm trước; 34 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 47,83% so với cùng kỳ năm trước.

4. Vốn đầu tư

Trong tháng Bảy, vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tiếp tục được các Sở, ngành và địa phương nỗ lực đẩy mạnh thực hiện triển khai, giải ngân vốn đầu tư công, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đặc biệt là các dự án chuyển tiếp. Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Tính chung 7 tháng năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt 1.562 tỷ đồng, tăng 7,46% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 7 năm 2024 là 319,5 tỷ đồng, tăng 7,53% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 184,4 tỷ đồng, chiếm 57,88% trong tổng số nguồn vốn; Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 134,2 tỷ đồng, chiếm 42,12% trong tổng số nguồn vốn.

Tính chung 7 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn đạt 1.562 tỷ đồng, tăng 7,46% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.082 tỷ đồng, chiếm 69,28% trong tổng số nguồn vốn, tăng 4,85% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 598 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 421 tỷ đồng; nguồn vốn ODA 17  tỷ đồng;  nguồn vốn Xổ số kiến thiết đạt 46 tỷ đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 480 tỷ đồng, chiếm 30,72% trong tổng số nguồn vốn, tăng 13,85% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện đạt 243 tỷ đồng; nguồn vốn hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 237 tỷ đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp xã không phát sinh.

Nhìn chung trong 7 tháng năm 2024, tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2023 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2024 đang được các đơn vị triển khai thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối Tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra biên giới xã Mo Ray, huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; Đầu tư XD cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum với huyện Sơn Tây, Sơn Hà - Quảng Ngãi; Hệ thống thoát nước, vỉa hè các tuyến đường nội thành, thành phố Kon Tum…

5. Hoạt động ngân hàng[2]

- Tình hình thực hiện lãi suất:

Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tỉnh chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên địa bàn tỉnh áp dụng mức lãi suất như sau:

* Lãi suất huy động bằng VNĐ: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng: ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 3,0-4,0%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,0-5,0%/năm.

* Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 9,0-12,0%/năm.

- Hoạt động huy động vốn: Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tỉnh tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn tỉnh.

Đến ngày 31/7/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn tỉnh ước đạt 22.900 tỷ đồng, giảm 0,5% (-124 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.500 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,6% tổng nguồn vốn huy động, giảm 8,3% (-136 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

- Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện theo chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn. Đến ngày 31/7/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn tỉnh ước đạt 47.300 tỷ đồng, tăng 1,7% (+788 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:

- Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 29.730 tỷ đồng, chiếm 62,9% tổng dư nợ, tăng 3,8% (+1.086 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.570 tỷ đồng, chiếm 37,1% tổng dư nợ, giảm 1,7% (-298 tỷ đồng) so với đầu năm.

- Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.100 tỷ đồng, chiếm 31,9% tổng dư nợ, tăng 1,2% (+180 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 55 tỷ đồng, chiếm 0,1% tổng dư nợ, tăng 3,1% (+1,6 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 32.144 tỷ đồng, chiếm 68,0% tổng dư nợ, tăng 1,9% (+608 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 1,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.

6. Thương mại, dịch vụ

Trong 7 tháng năm 2024, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành, đơn vị trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp và hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mãi tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong 7 tháng năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch … sinh động, hấp dẫn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng năm 2024 tăng 12,75% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 12,26% so với cùng kỳ năm trước.

6.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 7 năm 2024 đạt 3.257 tỷ đồng, tương đối ổn định (giảm 0,007%) với tháng trước và tăng 16,51% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.729 tỷ đồng, chiếm 83,78% trong tổng số, tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 16,11% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 339 tỷ đồng, chiếm 10,41% trong tổng số, tăng 0,06% so với tháng trước và tăng 18,13% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 189 tỷ đồng, chiếm 5,8% trong tổng số, giảm 1,53% so với tháng trước và tăng 19,51% so với cùng kỳ năm trước.

Nguyên nhân tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 7 năm 2024 giảm nhẹ so với tháng trước là do các hệ thống bán lẻ trên địa bàn tỉnh tổ chức các chương trình khuyến mãi nhằm thu hút được sự hưởng ứng tham gia của thương nhân trên địa bàn. Tuy nhiên, tháng 7 năm 2024 tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh không thuận lợi do thời tiết mưa nhiều ảnh hưởng đến việc kinh doanh.

- Tính chung 7 tháng năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 22.314 tỷ đồng, tăng 12,75% so với cùng kỳ năm trước.

+ Doanh thu bán lẻ hàng hóa 7 tháng năm 2024 ước đạt 18.631 tỷ đồng, chiếm 83,49% trong tổng số và tăng 12,26% so với cùng kỳ năm trước . Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 11,21%; Hàng may mặc, tăng 18,90%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 9,96%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 12,13%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 10,59%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 7,31%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 19,49%; Xăng, dầu các loại, tăng 11,72%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 24,60%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 29,43%; Hàng hoá khác, tăng 6,77%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 12,93%.

+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 7 tháng năm 2024 ước đạt 2.244 tỷ đồng, chiếm 10,06% trong tổng số và tăng 13,01% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 146 tỷ đồng, tăng 25,03%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.096 tỷ đồng, tăng 12,24%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 2,2 đồng, tăng 36,36% so với cùng kỳ năm trước.

+ Doanh thu dịch vụ khác 7 tháng năm 2024 ước đạt 1.439 tỷ đồng, chiếm 6,45% trong tổng số và tăng 18,95% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so như: dịch vụ kinh doanh bất động sản, tăng 9,31%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 23,94%; dịch vụ giáo dục và đào tạo, tăng 27,13%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tăng 25,14%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, tăng 16,52%; dịch vụ khác, tăng 21,05%...

Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 7 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước là do: Trong những tháng đầu năm 2024 (thời điểm có diễn ra Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024), để bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường trên địa bàn tỉnh Kon Tum, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-UBND ngày 26/12/2023 về tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Công văn số 807/UBND-KTTH ngày 11/3/2024 về việc triển khai thực hiện công tác quản lý, điều hành giá năm 2024. Trong 7 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành hoạt động tương đối ổn định so với cùng kỳ năm trước.

6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi

Hoạt động vận chuyển hành khách tháng Bảy tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do trong tháng là thời gian nghỉ hè của sinh viên các trường Cao đẳng và Đại học và một số địa phương trong nước tổ chức các sự kiện lớn nên nhu cầu của người dân đi về thăm quê và đi du lịch tăng. Hoạt động vận chuyển hàng hóa vẫn được duy trì ổn định và tăng nhẹ so với tháng trước. Tính chung 7 tháng năm 2024 tăng 10,4% về lượng khách vận chuyển và tăng 7,67% lượng hàng hóa vận chuyển so với cùng kỳ năm trước.

(1) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 7 năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 7 năm 2024 đạt 259,17 tỷ  đồng, tăng 1,07% so với tháng trước và tăng 12,63% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 73,85 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,61%), so với cùng kỳ năm trước tăng 15,15%; Vận chuyển ước đạt 1.071 nghìn lượt khách, tăng 19,88%; Luân chuyển ước đạt 142.445 nghìn lượt khách.km, tăng 18,36%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 167,16 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 0,75%), so với cùng kỳ năm trước tăng 11,37%; Vận chuyển ước đạt 1.684 nghìn tấn, tăng 15,15%; Luân chuyển ước đạt 86.346 nghìn tấn.km, tăng 14,65%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1,93 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 20,06%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 16,23 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,59%.

(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước 7 tháng năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 7 tháng đầu năm 2024 đạt 1.739,01 tỷ  đồng, tăng 15,91% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 499,83 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 25,02%; Vận chuyển ước đạt 7.160 nghìn lượt khách, tăng 10,4%; Luân chuyển ước đạt 931.509 nghìn lượt khách.km, tăng 9,77%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.117,14 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,52%; Vận chuyển ước đạt 11.367 nghìn tấn, tăng 7,67%; Luân chuyển ước đạt 573.393 nghìn tấn.km, tăng 7,73%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 13,1 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 21,74%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 108,94 tỷ đồng, tăng  12,43%.

7. Giá cả thị trường   

7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Tháng 7 năm 2024 giá cả thị trường trong tháng ở địa phương ổn định, không có sự biến động lớn về giá, không xảy ra hiện tượng ghim hàng tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 năm 2024 tăng 0,53% so với tháng trước, tăng 3,30% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,04% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 7 tháng  năm 2024, CPI tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2024 tăng 0,53% (khu vực thành thị tăng 0,63%; khu vực nông thôn tăng 0,45%). Theo Nghị định 73/2024/NĐ-CP của Chính phủ, từ ngày 01/7/2024 cán bộ, công chức, viên chức được tăng lương cơ sở lên 2.340.000 đồng/tháng (tăng 30%), song giá cả thị trường trong tháng 7 ở địa phương duy trì ổn định, không có sự biến động lớn về giá, không xảy ra hiện tượng ghim hàng tăng giá.

Trong mức tăng 0,53% của CPI tháng 7/2024 so với tháng trước có 09 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 02 nhóm hàng có chỉ số giảm.

Chín nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

(1) Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,37%)

- Lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,27%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,43% (giá gạo tẻ thường tăng 0,45%, giá gạo tẻ ngon tăng 0,45%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng và giá lúa tăng. Ở chiều ngược lại, nhóm bột mì và ngũ cốc khác giảm 0,1%, chủ yếu là do giá khoai lang giảm 1,29%.

- Thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,52%, chủ yếu là do nhóm thịt gia cầm tăng 0,41%, trong đó giá thịt gà tăng 0,41%, giá thịt gia cầm khác tăng 0,38%. Nhóm trứng các loại tăng 0,68%, trong đó giá trứng tươi các loại tăng 0,7%. Nhóm dầu mỡ và chất béo khác tăng 1,33%, trong đó giá dầu thực vật tăng 1,55%, là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên giá tăng theo. Nhóm thủy sản tươi sống tăng 1,49% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,77%, nhóm thủy hải sản tươi sống khác tăng 1,93%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung giảm nên làm cho giá tăng. Ở chiều ngược lại, nhóm thịt gia súc giảm 0,16%, trong đó giá thịt lợn giảm 0,23%, giá nội tạng động vật giảm 0,5%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng Bệnh dịch tả lợn Châu Phi ở một số địa phương trên toàn quốc nên nhu cầu tiêu dùng giảm.

Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 2,37%, trong đó giá cà chua tăng 15,51% (tăng từ 2000 đến 3000 đồng/kg) là do các cơn mưa lớn đầu mùa gây rụng quả non và làm dập bông nên năng suất giảm mạnh, giá bắp cải tăng 10,05% (tăng từ 1500 đến 2500 đồng/kg), giá su hào tăng 1,99%, giá rau dạng quả củ tăng 2,55%, giá rau gia vị tươi khô các loại tăng 5,45%, nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm rau trên trái vụ. Nhóm quả tươi, chế biến tăng 0,04%, trong đó giá chuối tăng 0,56%, giá quả tươi khác tăng 0,5%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng đồng thời các sản phẩm trên trái vụ.

Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,18% là do giá sữa đậu nành, sữa ngô tăng 1,36%, giá sữa bột trẻ em tăng 0,35%, giá sữa bột người lớn tăng 0,7%; nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 0,38%, trong đó giá cà phê bột tăng 2,47%, giá cà phê hòa tan tăng 0,3%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng.

(2) Đồ uống và thuốc lá (+0,11%)

 Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,11%, là do giá rượu các loại tăng 0,43%, trong đó rượu mạnh tăng 0,86%, tăng chủ yếu là do rượu trắng địa phương tăng; nhóm thuốc hút tăng 0,04%, là do giá thuốc lào tăng 2,17%.

 (3) May mặc, mũ nón và giày dép (+0,35%)

Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,35%, là do nhóm quần áo may sẵn tăng 0,48%, trong đó giá quần áo cho nữ (13 tuổi trở lên) tăng 0,59%; giá giầy dép các loại tăng 0,24%, trong đó giá giầy dép cho nam tăng 0,76%; nhóm dịch vụ giầy, dép tăng 0,58%; nhóm mũ nón tăng 0,24%. Nguyên nhân là do nhu cầu mua sắm trang phục cho du lịch mùa hè và mua sắm chuẩn bị năm học mới cho con em học sinh tăng nên giá tăng theo.

(4) Nhà ở và vật liệu xây dựng (+0,12%)

 Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,12%,  nguyên nhân chính là do nhóm nhà ở thuê tăng 0,54%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 0,59%; nhóm vật liệu và bảo dưỡng nhà ở tăng 0,44%, trong đó giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở chính tăng 0,68%. Ở chiều ngược lại giá điện sinh hoạt giảm 1,3% (do nhu cầu tiêu dùng giảm nên giá bình quân giảm); giá nước sinh hoạt giảm 1,77% là do trong tháng mưa nhiều nên nhu cầu tiêu dùng nước giảm. Riêng giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước tăng 4,38%.

(5) Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,22%)

Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,22%, tăng chủ yếu là do giá các đồ dùng nấu ăn tăng 0,35%; giá máy giặt tăng 0,35%; giá đồ điện tăng 0,09%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 0,28%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,54%, trong đó giá xà phòng giặt tăng 1,59%; giá sửa chữa thiết bị gia đình tăng 2,07%, trong đó giá sửa chữa ti vi tăng 2,96%.

(6)Thuốc và dịch vụ y tế (+0,38%)

 Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,38%, là do giá thuốc các loại tăng 0,36%, trong đó giá thuốc giảm đau, hạ sốt tăng 2,63%, giá thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 0,66%; giá dịch vụ y tế tăng 0,4% là do cơ sở y tế tư nhân tăng giá một số dịch vụ y tế.

(7) Giao thông (+1,68%)

Chỉ số nhóm giao thông tăng 1,68%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu tăng 3,78%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước giá xăng tăng 3,81%, giá dầu diezel giảm 4,38%; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,83%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 20,44%.

(8) Giáo dục (+0,23%)

 Chỉ số nhóm giáo dục tăng 0,23% là do nhóm văn phòng phẩm tăng 1,0%, trong đó giá sản phẩm từ giấy tăng 4,31%, giá bút viết các loại tăng 3,04%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu mua sắm giấy, bút, vở chuẩn bị cho năm học mới tăng nên giá tăng theo quy luật cung cầu. Ở chiều ngược lại, giá sách giáo khoa giảm 2,19% là do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam thực hiện điều chỉnh giảm giá bán sách giáo khoa tái bản nên các cơ sở kinh doanh giảm giá bán tương ứng.

(9) Hàng hóa và dịch vụ khác (+4,31%)

Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,31%, tăng chủ yếu là do giá bảo hiểm y tế tăng 30%; nhóm đồ dùng cá nhân tăng 0,29%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,71%.

Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:

(1)Bưu chính viễn thông (-1,12%)

Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,12%, là do nhóm thiết bị điện thoại giảm 3,19%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 4,31%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động thế hệ cũ. Ở chiều ngược lại, giá sửa chữa điện thoại tăng 5,12% là do giá nguyên vật liệu đầu vào tăng.

(2)Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,05%)

 Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,05% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,58%, trong đó giá ti vi màu tăng 0,61%; giá hoa, cây cảnh, vật cảnh giảm 0,28%, trong đó giá cây, hoa cảnh giảm 1,25%. Ở chiều ngược lại, giá  khách sạn, nhà khách tăng 4,34%, trong đó giá khách sạn tăng 4,74%, nguyên nhân là giá tăng theo mùa du lịch.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 7 tháng năm 2024 tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng giá:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,9%, trong đó giá lương thực tăng 10,59% (giá gạo tăng 15,0% do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng); giá bột mì và ngũ cốc khác tăng 8,18%; giá các loại đậu và hạt tăng 6,61%; giá đường, mật tăng 6,19%; sữa, bơ, pho mai tăng 3,31%; chè, cà phê, ca cao tăng 3,14%, trong đó cà phê bột tăng 14,26%. Ở chiều ngược lại, giá thịt gia súc giảm 0,68% (riêng giá thịt lợn giảm 0,9%); giá trứng các loại giảm 1,86%; giá dầu mỡ và chất béo khác giảm 2,88%; giá rau tươi, khô và chế biến giảm 0,39%; giá quả tươi và chế biến giảm 1,39%.

- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,36%, là do giá thuốc hút tăng 1,91%; giá rượu bia tăng 3,23%, trong đó giá rượu tăng 4,43%, giá bia tăng 2,49%, là do nhu cầu tiêu dùng trong dịp Lễ, Tết Nguyên đán tăng.

- Nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 3,25%, trong đó giá vải các loại tăng 2,83%, giá quần áo may sẵn tăng 3,03%, giầy dép tăng 3,6%, dịch vụ may mặc tăng 1,62% là do nhu cầu tiêu dùng tăng cao thời điểm Tết Nguyên đán và các dịp nghỉ Lễ đầu năm.

- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,0%, tăng chủ yếu là do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,33%; giá nhà ở thuê tăng 6,32%; giá điện sinh hoạt tăng 7,16% là do ảnh hưởng điều chỉnh tăng giá điện sinh hoạt.

- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,84% là do giá đồ điện tăng 2,24%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 1,12%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 1,62%; giá dịch vụ trong gia đình tăng 8,62%; giá vật phẩm tiêu dùng khác tăng 2,08%. Ở chiều ngược lại giá tủ lạnh giảm 4,81%, giá máy giặt giảm 2,37%.

- Nhóm thuốc và thiết bị y tế tăng 9,88%, chủ yếu là do giá dịch vụ y tế tăng 11,43%; giá thuốc các loại tăng 3,69%; giá dụng cụ y tế tăng 1,75%.

- Nhóm giao thông tăng 2,81%, chủ yếu là do giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 15,8% là do tăng giá vé Tết vận chuyển hành khách bằng các loại phương tiện để bù chiều vắng hoặc ít khách; giá nhiên liệu tăng 3,76%, trong đó giá xăng tăng 3,8%, giá dầu dizel tăng 4,06%.

- Nhóm giáo dục tăng 1,28%, trong đó giá các loại văn phòng phẩm tăng 4,37% (giá sản phẩm từ giấy tăng 11,52%); dịch vụ giáo dục tăng 0,39%.

- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,26%, tăng chủ yếu là do giá đồ dùng cá nhân tăng 6,69%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 9,19%, giá đồ trang sức tăng 20,85% do tăng theo giá vàng.

Ở chiều ngược lại, có 02 nhóm hàng giảm giá:

- Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 5,41% là do giá các loại điện thoại di động thế hệ cũ giảm 14,77%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 20,27%.

- Nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 2,75%, giảm chủ yếu là do giá thiết bị văn hóa giảm 13,64%, trong đó giá tivi màu giảm 14,03%. Ở chiều ngược lại, nhóm khách sạn nhà hàng tăng 5,44%, trong đó giá nhà khách tăng 5,67%, giá khách sạn tăng 3,87%.

7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh

(1) Chỉ số giá vàng (-5,34%)

Giá vàng trong nước biến động giảm cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 7/2024 giảm 5,34% so với tháng trước; tăng 6,01% so với tháng 12/2023; tăng 16,35% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 7 tháng đầu năm so cùng kỳ năm trước tăng 20,57%.

(2) Chỉ số giá đô la Mỹ (-0,02%)

Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 7/2024 giao dịch bình quân quanh mức 25.454 VND/USD, giảm 0,02% so với tháng trước; tăng 3,97% so với tháng 12/2023; tăng 6,81% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 7 tháng đầu năm so cùng kỳ năm trước tăng 5,66%.

8. Một số tình hình xã hội

8.1. Tình hình đời sống dân cư

Trong tháng 7 năm 2024, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển; chế độ, chính sách về an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; tình hình dịch bệnh luôn kiểm soát tốt; chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện; cải cách thủ tục hành chính được thực hiện mạnh mẽ; các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tổ chức tốt kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 trên địa bàn tỉnh. Theo dữ liệu điểm thi được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố, điểm trung bình môn thi tốt nghiệp THPT năm 2024 của tỉnh Kon Tum đạt 6,533 điểm, tăng 0,189 điểm so với năm 2023; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT của tỉnh năm 2024 là 99,31%, tăng 0,53% so với năm 2023.

Ngành Giáo dục tỉnh đã thực hiện tốt công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp cho năm học 2024- 2025 và công tác chuẩn bị các điều kiện triển khai năm học 2024-2025. Tổ chức cho học sinh, sinh viên các hoạt động hè bổ ích, thiết thực, nhất là các hoạt động phòng chống đuối nước ở trẻ em.

Tình hình sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn; vi phạm Luật lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn ra; tình hình tai nạn giao thông chưa được kiềm chế.

8.2. Tình hình nổi bật, bất thường về xã hội

- Về y tế: Trong tháng, ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, các dịch bệnh trên người được kiểm soát tốt, công tác đảm bảo an toàn thực phẩm được triển khai thực hiện nghiêm túc. Trong tháng xảy ra 08 trường hợp ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ do ăn, uống không đảm bảo vệ sinh.

(1) Tình hình dịch bệnh tháng 6 năm 2024:

- Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, ghi nhận 02 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 01, Ngọc Hồi 01), giảm 01 ca so với tháng trước và giảm 06 ca so với tháng 6/2023. Luỹ tích đến 30/6/2024, không có tử vong, ghi nhận 10 ca mắc (thành phố Kon Tum 04, Ngọc Hồi 03, Tu Mơ Rông 02, Ia H’Drai 01), giảm 21 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 07 ca mắc mới (Đăk Glei 05, Tu Mơ Rông 01, Kon Rẫy 01), giảm 10 ca so với tháng trước và giảm 13 ca so với tháng 6/2023. Luỹ tích đến 30/6/2024, không có tử vong, ghi nhận 106 ca mắc , giảm 14 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 12 ca mắc mới (Đăk Glei 07, Đăk Tô 03, Kon Rẫy 02), giảm 08 ca so với tháng trước và tăng 09 ca so với tháng 6/2023. Luỹ tích đến 30/6/2024, không có tử vong, ghi nhận 128 ca mắc , tăng 94 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 15 ổ dịch mới (Đăk Hà 02, Đăk Tô 01, Kon Rẫy 09, Kon Plông 01, Sa Thầy 02), tăng 09 ổ dịch so với tháng trước và tăng 06 ổ dịch so với tháng 6/2023. Lũy tích đến 30/6/2024, (Đăk Hà 04, Đăk Tô 02, Kon Rẫy 16, Kon Plông 01, Sa Thầy 02), tăng 06 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, ghi nhận 64 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 05, Đăk Hà 05, Đăk Tô 01, Đăk Glei 01, Kon Rẫy 47, Kon Plông 03, Sa Thầy 02), tăng 47 ca so với tháng trước và tăng 47 ca so với tháng 6/2023. Luỹ tích đến 30/6/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 141 ca mắc , tăng 98 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Bệnh Lao: Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 27 ca mắc mới; giảm 09 ca so với tháng trước, giảm 07 ca so với tháng 6/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 30/6/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 184 ca mắc, giảm 17 ca so với cùng kỳ năm trước; trong đó lao phổi AFB (+): 127, lao phổi AFB (-): 12 và lao ngoài phổi: 45. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 30/6/2024: ghi nhận 2.493 ca; trong đó tử vong: 26 ca, hoàn thành điều trị: 2.244 ca, đang được quản lý điều trị: 223 ca.

- Bệnh Phong: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới, giảm 01 ca so với tháng trước và bằng so với cùng tháng 6/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 30/6/2024, không có ca tử vong; ghi nhận 01 ca mắc tại huyện Đăk Glei, bằng so với cùng kỳ năm trước. Quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên): Đang quản lý 50 bệnh nhân; bệnh nhân cũ điều trị nội trú còn lại đầu tháng 15; bệnh nhân đến khám (kê đơn) trong tháng 15 lượt; bệnh nhân nhập viện trong tháng 10; bệnh nhân xuất viện trong tháng 5; bệnh nhân hiện còn đang điều trị nội trú 20.

- Trong 6 tháng đầu năm 2024, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...); Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV); Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID-19); Đậu mùa khỉ; Cúm A(H1N1); Sốt rét; Bệnh do vi rút Zika; Viêm não Nhật Bản; Viêm gan vi rút A; Bạch hầu; Dại; Ho gà; Sởi...

(2) Tiêm chủng mở rộng

- Tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho người từ 12 tuổi trở lên, kết quả đến 30/6/2024:

+ Nhóm đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,73%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 98,76%; tỷ lệ tiêm liều bổ sung đạt 96,7%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 1 đạt 92,6%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 2 đạt 100%.

+ Nhóm đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,52%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại đạt 96,03%.

+ Nhóm đối tượng từ 5 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,3%.

(3) Phòng chống HIV/AIDS

- Tình hình HIV/AIDS trong tháng 6/2024: Số người ghi nhận nhiễm HIV trong tháng 04 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật).

- Lũy tích HIV/AIDS tính đến ngày 30/6/2024: Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS 598 người; trong đó tử vong do HIV/AIDS 212 người (AIDS 199, HIV 13), nhiễm HIV/AIDS còn sống 386 người (còn sống đang quản lý và tiếp cận được 251); nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 305 người, trong đó còn sống 105.

- Điều trị ARV: Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 30/6/2024 là 200 bệnh nhân (có 9 trẻ em). Tổng số bệnh nhân hiện đang điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 7.

 (4 )Khám chữa bệnh

Đảm bảo công tác khám, thu dung và điều trị bệnh nhân; tiếp tục thực hiện các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh điều trị nội trú, ngoại trú. Tổng số lượt khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập trong tháng là 76.499 lượt người, giảm 7% so với tháng trước và số lượt điều trị nội trú 6.701 lượt người, giảm 2,3% so với tháng trước; công suất sử dụng giường bệnh kế hoạch bình quân của các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện và phòng khám đa khoa khu vực đạt 62,8% (tháng trước 62,4%), trong đó tuyến tỉnh 79,6% (tháng trước 77,9%), tuyến huyện 38,9% (tháng trước 40,8%) và phòng khám đa khoa khu vực 69,5% (tháng trước 58,8%).

- Về văn hóa: Trên địa bàn tỉnh, công tác khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống của các dân tộc thiểu số, các di tích lịch sử cách mạng gắn với phát triển du lịch được triển khai tích cực. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được quan tâm, duy trì.

- Về thể dục thể thao: Trên địa bàn tỉnh, Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng Nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng.

- Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, không phát sinh các vấn đề nổi cộm về môi trường. Tuy nhiên, tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn chưa được kiềm chế, tăng hai tiêu chí so với tháng trước.

8.3. Tình hình bất thường về thiên tai, hỏa hoạn

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh Kon Tum chịu ảnh hưởng của dãi áp thấp gây ra mưa nhiều, có nơi mưa to đến rất to tại hầu hết các địa bàn của tỉnh Kon Tum. Gây ra nhiều điểm sạt lỡ trên các tuyến tỉnh lộ và đường liên xã, ảnh hưởng đến giao thông đi lại của người dân tại nhiều xã trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra mưa lớn, nước ở thượng nguồn đổ về kèm theo lượng lớn đất phù sa dẫn đến cá bị ngạt, thiếu oxy chết của 4 hộ nuôi cá lồng bè (20 lồng) ở lòng hồ Plei Kroong, xã Ya Ly, huyện Sa Thầy, tổng thiệt hại ước tính khoảng 3,8 tỷ đồng.

8.4. Tình hình môi trường

Trong tháng, không phát hiện vụ vi phạm môi trường, Lực lượng chức năng trên địa bàn huyện Đăk Hà đã xử lý 01 vụ vi phạm do khai thác khoáng sản trái phép (phát hiện tháng 5) nay đã bị xử lý (vụ khai thác cát tại thôn Pa Cheng, xã Đăk Long).

8.5. Tình hình trật tự an toàn xã hội

- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 27 vụ[3] (tăng 04 vụ so với tháng trước, giảm 05 vụ so với tháng 7/2023). Hậu quả thiệt hại: 03 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 130 triệu đồng.

- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 01 vụ Nhận hối lộ trên địa bàn TP Kon Tum (tăng 01 vụ so với tháng trước).

- Phạm tội về ma túy: Phát hiện 19 vụ (tăng 11 vụ so với tháng trước), cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 07 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 07 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 03 vụ; Mua bán, Tàng trữ trái phép chất ma túy 01 vụ; Mua bán, Tổ chức sử dụng, Tàng trữ trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 1,16g Heroin; 857,218g cần sa; 30,072g ma túy tổng hợp. Địa bàn: TP Kon Tum 13 vụ; Đăk Hà 02 vụ; Ngọc Hồi 02 vụ; Đăk Glei 01 vụ; Sa Thầy 01 vụ.

- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 11 vụ TNGT[4] (05 vụ ít nghiêm trọng, 06 vụ nghiêm trọng) làm 06 người chết, 09 người bị thương. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 38 triệu đồng. So với tháng trước giảm 05 vụ, giảm 08 người chết, tăng 03 người bị thương. So với cùng kỳ tháng 7/2023 tăng 03 vụ, giảm 02 người chết, không tăng giảm số người bị thương.

- Tình hình chảy nổ: Không xảy ra (không thay đổi so với tháng trước và cùng kỳ năm 2023).

- Tình hình sự cố, tai nạn: Xảy ra 01 vụ (giảm 01 vụ so với tháng trước và tăng 01 vụ so với cùng kỳ năm 2023). Hậu quả: 01 người chết. Kết quả CNCH: Tìm được 01 thi thể nạn nhân.

 


[1] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư

[2] Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum

[3] Giết người 01 vụ; Hiếp dâm 01 vụ; cố ý gây thương tích 02 vụ; Tổ chức cho người khác xuất cảnh nhập cảnh trái phép 01 vụ: Trộm cắp tài sản 14 vụ; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 02 vụ; Hủy hoại tài sản 01 vụ; Đánh bạc 04 vụ; Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức 01 vụ. Địa bàn; TP Kon Tum 15 vụ; Đăk Hà 05 vụ; Ngọc Hồi 04 vụ; Kon Rẫy 01 vụ; Tu Mơ Rông 01 vụ; Sa Thầy 01 vụ.

[4] Địa bàn: Đăk Hà 03 vụ; Kon Plông 02 vụ; Ngọc Hồi 02 vụ; Tu Mơ Rông 02 vụ;; TP Kon Tum 01 vụ Đăk Glei 01 vụ.

Xem và tải về:   Tải về

Cục Thống kê 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC