Tình hình kinh tế - xã hội cả nước nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng trong năm 2024 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp và bất ổn. Năm 2024, kinh tế toàn cầu có sự cải thiện nhẹ so với năm trước, với dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt từ 3,1% đến 3,2% và lạm phát giảm xuống còn 5,8% - 5,9%. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức và rủi ro lớn. Chính sách tài khóa và tiền tệ nhìn chung vẫn tiếp tục thắt chặt ở nhiều quốc gia, gây áp lực lên chi phí vay và làm gia tăng nguy cơ suy thoái kinh tế. Các căng thẳng địa chính trị, đặc biệt là tình hình bất ổn tại Trung Đông đang đe dọa gián đoạn chuỗi cung ứng và thị trường năng lượng toàn cầu. Bên cạnh đó, xu hướng phân mảnh thị trường và công nghệ toàn cầu ngày càng rõ nét, thể hiện qua sự mở rộng của Khối BRICS và các biện pháp trừng phạt từ Mỹ đã làm suy yếu hợp tác quốc tế và hiệu quả của chuỗi cung ứng toàn cầu. Những yếu tố này tạo ra một bức tranh kinh tế thế giới đầy thách thức, đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược linh hoạt và thích ứng để duy trì tăng trưởng bền vững trong bối cảnh mới.
Bên cạnh đó, sự phục hồi kinh tế không đồng đều giữa các nhóm nền kinh tế, do ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế và chính sách khác nhau giữa các quốc gia, cũng như tác động không đều của các yếu tố như lạm phát, chính sách tiền tệ thắt chặt và căng thẳng địa chính trị... nên các nền kinh tế phát triển có sự tăng trưởng nhẹ, từ 1,6% GDP năm 2023 lên 1,7% năm 2024 và đạt 1,8% vào năm 2025 (theo IMF, 2024).
Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum. Trong năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt và tổ chức làm việc trực tiếp với các đơn vị, địa phương triển khai kịp thời các nhiệm vụ, giải pháp đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh xác định tại các nghị quyết[1]. Ngay từ những ngày đầu năm Ủy ban Nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 24/QĐ-UBND ngày 20/01/2024 về Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh yêu cầu các sở, ban ngành, đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và các Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu thuộc tỉnh khẩn trương triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước, đầu tư công và các Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2024. Trên tinh thần quyết tâm, quyết liệt, trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, cùng với đó, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp là yếu tố quan trọng giúp nền kinh tế của tỉnh vượt qua những khó khăn, thách thức. Nhờ vào những nỗ lực đó, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Kon Tum tiếp tục phát triển, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ như: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp, ... Cải cách thủ tục hành chính đạt được nhiều kết quả tích cực, kinh tế số, xã hội số được chú trọng phát triển; công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp được triển khai quyết liệt; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; đối ngoại được mở rộng... Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong năm 2024 đã đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể của các ngành, lĩnh vực như sau:
- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP ước tăng 8,02%[2].
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước khoảng 4.425 tỷ đồng, tăng 31,24% so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 12.554 tỷ đồng, tăng 32,53% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành ước tính năm 2024 đạt 27.560 tỷ đồng, tăng 18,58% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10,08%.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước đạt 39.273 tỷ đồng, tăng 14,88% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2024 tăng 2,76% so với năm trước.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản ổn định.
1. Tăng trưởng kinh tế
a) Tăng trưởng toàn nền kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV/2024 ước tăng 9,07% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản tăng 6,22%; Khu vực Công nghiệp và Xây dựng tăng 13,13%; Khu vực Dịch vụ tăng 8,96%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,86%.
Tính chung cả năm 2024 Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 20.255,36 tỷ đồng, tăng 8,02% so với năm trước (quý I tăng 6,77%; quý II tăng 7,10%; quý III tăng 8,31%; quý IV tăng 9,07%). Trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản đạt 4.218,23 tỷ đồng, tăng 5,97%; Khu vực Công nghiệp và Xây dựng đạt 5.990,40 tỷ đồng, tăng 11,73%, trong đó Công nghiệp đạt 2.742,84 tỷ đồng, tăng 13,44%; Khu vực Dịch vụ đạt 8.518,76 tỷ đồng, tăng 6,97%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 1.527,98 tỷ đồng, tăng 5,63%. Có thể nói đây là mức tăng khá cao so với các năm gần đây, thể hiện đầy đủ và đúng xu hướng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.
GRDP năm 2024 tăng 8,02% so với năm trước, tuy không đạt theo kỳ vọng nhưng là mức tăng tương đối cao trong giai đoạn 2020-2024, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần lấy lại đà tăng trưởng, chính sách phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh xác định tại các nghị quyết (Nghị quyết số 23-NQ/TU ngày 05 tháng 12 năm 2023; Nghị quyết số 61/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2023). Với tinh thần quyết liệt, trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, sự tin tưởng, đồng lòng, quyết tâm của cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2024 đạt được nhiều kết quả quan trọng, trên nhiều phương diện, lĩnh vực.
b) Tăng trưởng các khu vực kinh tế
Trong mức tăng trưởng chung 8,02% thì nhóm ngành nông, lâm, thủy sản đóng góp 1,27 điểm phần trăm; nhóm ngành công nghiệp, xây dựng đóng góp 3,36 điểm phần trăm, trong đó Công nghiệp đóng góp 1,73 điểm phần trăm; nhóm thương mại, dịch vụ đóng góp 2,96% và Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 0,43 điểm phần trăm.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt đều có tốc độ tăng trưởng, cụ thể các khu vực như sau:
- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong năm 2024, tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh so với năm trước có mưa nhiều, lượng mưa trải đều các tháng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, hồ, đập thủy điện tăng. Các công trình hồ, đập thủy điện đã được đầu tư kiên cố, cơ bản đáp ứng đủ nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy, mà nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản năm 2024 đã đáp ứng được yêu cầu, tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Sản xuất nông nghiệp năm 2024 cơ bản tương đối ổn định, năng suất lúa và một số cây trồng khác tăng nhẹ so với năm trước; sản lượng một số loại cây lâu năm tăng nhẹ, giá thành sản phẩm một số loại cây trồng như cà phê, sầu riêng… tăng so với năm trước nên người dân phấn khởi yên tâm đầu tư, chăm sóc cây trồng cho năm tiếp theo. Bên cạnh đó việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao như: Trồng các loại cây ăn quả, mắc ca, sâm Ngọc linh được địa phương quan tâm đầu tư mở rộng diện tích.
Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 5,97% so với năm 2023, đóng góp 1,27 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP. Đây là khu vực ghi nhận tốc độ tăng đồng đều trong các quý. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng của một số cây lâu năm, chăn nuôi gia cầm và hoạt động thủy sản phát triển tốt, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu tăng khá nên tốc độ tăng của khu vực này đạt cao. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan năm 2024 tăng 6,17% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,27 điểm phần trăm; ngành Lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan tăng 3,12%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm; ngành Khai thác, nuôi trồng thủy sản 7,09%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
- Khu vực Công nghiệp - Xây dựng
Giá trị tăng thêm khu vực Công nghiệp - Xây dựng có mức tăng khá cao, đạt 11,73% so với năm trước, đóng góp 3,36 điểm phần trăm vào mức tăng chung GRDP. Trong đó ngành công nghiệp tăng 13,44%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 10,33%, đóng góp 1,88 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
Trong mức tăng chung 13,44% của ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp khai khoáng tăng 15,33% đóng góp 0,07 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,89% đóng góp 0,53 điểm phần trăm; ngành công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước tăng 12,96% đóng góp 1,21 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 18,10% đóng góp 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp và xây dựng của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp cả năm 2024 tăng 10,08% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó ngành khai khoáng tăng 13,07%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,62%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,38%; ngành cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 15,41%; Một số sản phẩm sản xuất chủ yếu ngành công nghiệp ước tính tăng so với cùng kỳ năm trước như : Đá xây dựng khai thác 537.671 m3, tăng 12,23%; Tinh bột sắn sản xuất 293.510 tấn, tăng 6,27%; Đường 16.251 tấn, tăng 31,57%; Gỗ cưa hoặc xẻ 40.852 m³, tăng 21,9%; gạch xây dựng bằng đất sét nung 231.431 nghìn viên, tăng 8,7%; điện sản xuất 3.625 triệu Kwh, tăng 8,74%; Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2024 ước tính tăng 10,06% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đến thời điểm 31/12/2024 giảm 17,40% so với cùng thời điểm năm trước.
Hoạt động xây dựng năm 2024 vẫn tiếp tục tăng trưởng khá đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế tỉnh. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng năm 2024 tăng 10,33%, đóng góp 1,76 điểm phần trăm, chiếm 17,34% giá trị tăng thêm toàn tỉnh và chiếm 54,21% giá trị tăng thêm khu vực công nghiệp - xây dựng. Do vậy, tăng trưởng của ngành xây dựng đóng góp rất lớn trong tăng trưởng chung của nền kinh tế.
- Khu vực dịch vụ
Các ngành kinh tế trong khu vực dịch vụ được coi là ngành “công nghiệp không khói”, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, nó đã, đang và sẽ được nhà nước khuyến khích phát triển để tạo bước đột phá trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng khởi sắc khi nhiều hoạt động dịch vụ sôi động trở lại, năm 2024 ước tính giá trị tăng thêm có mức tăng 6,97% so với năm 2023, đóng góp 2,96 điểm phần trăm vào mức tăng chung GRDP. Một số ngành có đóng góp trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ đó là nhóm ngành: Vận tải kho bãi tăng 12,91%; Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 12,35%; Thông tin và truyền thông tăng 6,89%; Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 18,16%; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 16,38%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 11,03%...
c) Quy mô và cơ cấu nền kinh tế
Quy mô nền kinh tế tỉnh Kon Tum năm 2024 theo giá hiện hành ước tính đạt 40.946 tỷ đồng, trong đó: Khu vực I (Nông - Lâm - Thuỷ sản) đạt 8.443 tỷ đồng, chiếm 20,62%; khu vực II (Công nghiệp - Xây dựng) đạt 13.842 tỷ đồng, chiếm 33,81%; khu vực III (Dịch vụ) đạt 15.574 tỷ đồng, chiếm 38,04%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 3.086 tỷ đồng, chiếm 7,53%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. GRDP bình quân đầu người khoảng 68,15 triệu đồng (năm 2023 khoảng 59,20 triệu đồng).
2. Tài chính, ngân hàng
- Thu, chi ngân sách
Thu ngân sách nhà nước ước thực hiện cả năm thu đạt 4.425 tỷ đồng đạt 136% dự toán Trung ương giao, đạt 96,2% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao và tăng 31,24% so với cùng kỳ, trong đó: Thu nội địa: Ước thực hiện thu 3.035 tỷ đồng, tăng 24,25% so với cùng kỳ.
Chi ngân sách nhà nước ước thực hiện cả năm 12.554 tỷ đồng, đạt 85,9% nhiệm vụ chi và tăng 32,53% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt là 4.991 tỷ đồng, tăng 29,82%, chi thường xuyên đạt 7.560 tỷ đồng, tăng 34,38% so với cùng kỳ năm trước.
b) Hoạt động ngân hàng[3]
-Tình hình thực hiện lãi suất:
Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên địa bàn áp dụng mức lãi suất như sau:
+ Lãi suất huy động bằng VNĐ: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng : ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 4,0-4,5%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,5-5,0%/năm.
+ Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 9,0-12,0%/năm.
- Hoạt động huy động vốn:
Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định, các TCTD trên địa bàn tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế. Đến ngày 31/12/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 24.200 tỷ đồng, tăng 1,3% (+314 tỷ đồng) so với tháng trước và tăng 5,1% (+11.176 tỷ đồng) so với cuối năm 2023, tuy nhiên, nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm có mức tăng trưởng khá thấp so với năm 2023 (+12,0%). Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.850 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,6% tổng nguồn vốn huy động, tăng 13,1% (+214 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.
Nguyên nhân, trong tháng vẫn còn chịu tác động tiêu cực từ tình hình kinh tế trong nước và thế giới, hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn khiến nguồn tiền tích lũy trong dân cư giảm, bên cạnh đó, lãi suất huy động trong năm tương đối thấp so với các năm trước nên người dân có xu hướng đầu tư sang các kênh khác.
- Hoạt động tín dụng:
Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn.
Đến ngày 31/12/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đạt 49.000 tỷ đồng, tăng 1,2% (+583 tỷ đồng) so với tháng trước và tăng 5,4% (+2.488 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:
- Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 31.700 tỷ đồng, chiếm 64,7% tổng dư nợ, tăng 10,7% (+3.056 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.300 tỷ đồng, chiếm 35,3% tổng dư nợ, giảm 3,2% (-568 tỷ đồng) so với đầu năm.
- Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.200 tỷ đồng, chiếm 31,0% tổng dư nợ, tăng 1,9% (+280 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 56 tỷ đồng, chiếm 0,1% tổng dư nợ, tăng 4,9% (+2,6 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 33.741 tỷ đồng, chiếm 68,9% tổng dư nợ, tăng 7,0% (+2.205 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 3,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.
3. Chỉ số giá, lạm phát
a) Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Trong tháng 12 năm 2024, giá cả thị trường ở địa phương vẫn ổn định, không có biến động lớn về giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và dịch vụ, không có hiện tượng ghim hàng tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2024 tăng 0,60% so với tháng trước, tăng 4,30% so với cùng kỳ năm trước; tăng 4,30% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 12 tháng năm 2024, CPI tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2024 tăng 0,60% (khu vực thành thị tăng 0,57%; khu vực nông thôn tăng 0,62%). Trong mức tăng 0,60% của CPI tháng 12 so với tháng trước, có 09 nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,48%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,42%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,02%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,16%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,55%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; nhóm giao thông tăng 0,92%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,04%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,65%. Có 01 nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,7% và 01 nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
Chín nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
(1) Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,48%)
- Lương thực (+0,68%)
Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,68%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,39% (giá gạo tẻ thường tăng 0,41%, giá gạo nếp tăng 0,57%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp để chế biến một số mặt hàng chuẩn bị Tết Nguyên đán tăng; nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 3,36%, trong đó giá bột mì tăng 3,16%, giá sắn tăng 3,37%, giá khoai tăng 5,95%, nguyên nhân là do sản phẩm trái vụ và nhu cầu tiêu dùng tăng; giá lương thực chế biến tăng 0,9%, trong đó giá bánh mì tăng 1,47%, giá bún, phở tăng 1,01% là do tăng theo giá gạo.
- Thực phẩm (+0,34%)
Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,34%, chủ yếu là do nhóm thịt gia súc tăng 0,74%, trong đó thịt lợn tăng 0,86%, nội tạng động vật tăng 1,06%; nhóm thịt gia cầm tăng 0,49%, trong đó giá thịt gà tăng 0,53%, giá thịt gia cầm khác tăng 0,89%. Nhóm dầu mỡ và chất béo tăng 0,64%, trong đó mỡ động vật tăng 2,76% là do tăng theo giá thịt lợn và nhu cầu tiêu dùng tăng. Nhóm thủy sản tươi sống tăng 0,16%, trong đó nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,34%, nhóm thủy hải sản tươi sống khác tăng 0,61%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung giảm nên làm cho giá tăng.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 2,09%, trong đó giá bắp cải giảm 0,18%, giá su hào giảm 1,2%, giá rau muống giảm 5,22%, giá cà chua giảm 11,15%, giá rau dạng củ, quả giảm 3,31%, giá rau tươi khác tăng 1,14%, nguyên nhân là do các sản phẩm trái vụ. Ở chiều ngược lại, giá măng tươi tăng 5,21%, giá đỗ quả tươi tăng 3,68%, nguyên nhân là do các sản phẩm đang mùa thu hoạch giá tăng.
Nhóm quả tươi, chế biến tăng 0,58%, trong đó giá xoài tăng 2,67%, giá quả có múi tăng 0,91%, giá táo tăng 1,21%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng và lượng cung giảm.
Nhóm đồ gia vị tăng 1,91%, trong đó bột nêm, bột canh tăng 3,12%, giá mì chính tăng 1,35%; nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,75% là do giá sữa tươi tăng 1,79%, giá sữa đậu nành tăng 1,02%; nhóm bánh, kẹo, mứt tăng 1,42%, trong đó giá kẹo các loại tăng 2,04%; nhóm chè, cà phê tăng 0,24%, trong đó cà phê bột tăng 1,65%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng.
- Ăn uống ngoài gia đình (+0,75%)
Chỉ số nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,75% là do giá ăn ngoài gia đình tăng 0,79%, giá đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,73%, nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng.
(2) Đồ uống và thuốc lá (+1,42%)
Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,42%, tăng chủ yếu là do giá rượu các loại tăng 0,67%, trong đó rượu mạnh tăng 0,22%, nguyên nhân chủ yếu là rượu trắng địa phương tăng, do ảnh hưởng giá gạo tăng; giá thuốc lá các loại tăng 3,77%. Riêng giá bia giảm 0,34%, trong đó bia lon giảm 0,38% là do nhu cầu tiêu dùng giảm.
(3) May mặc, mũ nón và giày dép (+1,02%)
Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,02%, là do nhóm vải các loại tăng 1,24%; nhóm quần áo may sẵn tăng 0,99%, trong đó giá quần áo cho nam (13 tuổi trở lên) tăng 1,3%, giá quần áo cho trẻ em gái tăng 1,83%, giá quần áo cho trẻ sơ sinh tăng 2,0%; nhóm may mặc khác tăng 1,21%, trong đó giá bít tất các loại tăng 1,9%; giá mũ, nón tăng 2,06%, trong đó mũ bảo hiểm xe máy tăng 2,63%. Nguyên nhân chính là do nhu cầu mua sắm chuẩn bị cho Lễ Noen và Tết Nguyên đán tăng nên giá tăng theo theo quy luật cung cầu.
(4) Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+1,16%)
Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,16%, nguyên nhân chính là do nhóm nhà ở thuê tăng 1,39%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 1,24%; giá vật liệu xây dựng tăng 0,77%; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 3,24%; giá điện sinh hoạt tăng 0,62%, nguyên nhân nhu cầu tiêu dùng điện tăng nên giá bình quân tăng; giá nước sinh hoạt tăng 1,44% là do đang mùa khô nên nhu cầu tiêu dùng nước tăng. Ở chiều ngược lại, giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước giảm 0,99%.
(5) Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,55%)
Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,55%, tăng chủ yếu là do giá giường, tủ, bàn ghế tăng 1,59%; giá máy giặt tăng 1,45%; giá các mặt hàng thủy tinh, sành, sứ tăng 0,92%, trong đó giá ly, cốc, lọ hoa tăng 1,99%; giá đồ nhựa và cao su tăng 1,59%, trong đó giá đệm tăng 2,9%; giá thiết bị khác tăng 1,19%, trong đó thiết bị gia đình lớn có động cơ tăng 2,12%; giá sửa chữa thiết bị gia đình tăng 0,54%, trong đó giá sửa chữa máy giặt tăng 1,98%. Ở chiều ngược lại, giá tủ lạnh giảm 0,86%, giá máy điều hòa giảm 0,6%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá kích cầu.
(6) Thuốc và dịch vụ y tế (+0,08%)
Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%, là do giá một số loại thuốc tăng 0,31%, trong đó giá thuốc tác động vào hệ nội tiết tăng 0,82%, giá thuốc chống nhiễm và điều trị ký sinh trùng tăng 0,18% và giá thuốc một số mặt hàng khác tăng 0,65%.
(7) Giao thông (+0,92%)
Chỉ số nhóm giao thông tăng 0,92%, nguyên nhân chủ yếu là do giá phụ tùng tăng 2,46%, trong đó phụ tùng ô tô tăng 0,96%, phụ tùng khác của xe máy tăng 4,61%; chi phí bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 2,69%, trong đó sửa chữa xe máy tăng 2,84%; nhóm nhiên liệu tăng 1,2%, là do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước giá xăng tăng 1,28%, giá dầu diezel giảm 0,08%; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 0,28%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 2,06%.
(8) Văn hóa, giải trí và du lịch (+0,04%)
Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,04% là do nhóm vật phẩm văn hóa tăng 2,61%, trong đó giá nhạc cụ tăng 1,4%; nhóm đồ chơi tăng 0,48%, trong đó đồ chơi trẻ em tăng 0,53%; giá hoa cây cảnh tăng 2,61%, trong đó giá cây, hoa cảnh tăng 2,71%, giá vật cảnh tăng 3,3%.
(9) Hàng hóa và dịch vụ khác (+0,65%)
Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,65%, tăng chủ yếu là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 0,73%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 1,55%, giá máy dùng điện chăm sóc cá nhân tăng 1,67%, giá đồ trang sức giảm 0,97% là do giảm theo giá vàng.
Một nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm: Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,7%, là do nhóm thiết bị điện thoại giảm 2,01%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 1,28%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động thế hệ cũ.
Một nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá không thay đổi: nhóm Giáo dục.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2024 tăng 2,76% so với năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.
Các nhóm tăng giá:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,47%, trong đó giá lương thực tăng 9,82% (giá gạo tăng 13,74% do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng); giá bột mì và ngũ cốc khác tăng 6,77%; giá thủy sản tươi sống tăng 2,57%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 4,72%; giá các loại đậu và hạt tăng 3,75%; giá đường, mật tăng 5,67%; giá sữa, bơ, pho mai tăng 3,82%; giá bánh, kẹo tăng 3,31%; giá chè, cà phê, ca cao tăng 4,57%, trong đó cà phê bột tăng 23,0% là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng. Ở chiều ngược lại, giá thịt gia súc giảm 0,75% (riêng giá thịt lợn giảm 1,17%); giá trứng các loại giảm 0,28%; giá dầu mỡ và chất béo khác giảm 0,4%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,85%, là do giá thuốc hút tăng 2,6%; giá rượu, bia tăng 3,52%, trong đó giá rượu tăng 5,41%, giá bia tăng 2,36%, là do nhu cầu tiêu dùng trong các dịp Lễ, Tết Nguyên đán tăng.
- Nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 3,94%, trong đó giá vải các loại tăng 4,16%, giá quần áo may sẵn tăng 3,85%, giá giầy dép tăng 3,77%, giá dịch vụ may mặc tăng 2,23% là do nhu cầu tiêu dùng tăng cao thời điểm Tết Nguyên đán, các dịp nghỉ Lễ đầu năm và mua sắm trang phục cho học sinh đón năm học mới.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,36%, tăng chủ yếu là do giá nhà ở thuê tăng 8,42%, do các năm trước có giảm giá để hỗ trợ ảnh hưởng dịch COVID-19 nay giá tăng ổn định trở lại; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,33%; giá điện sinh hoạt tăng 6,39% là do ảnh hưởng điều chỉnh tăng giá điện sinh hoạt.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,99% là do giá đồ điện tăng 2,66%; giá giường, tủ, bàn ghế tăng 3,37%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 1,72%; giá đồ dùng bằng kim loại tăng 2,76%; giá hàng thủy tinh, sành sứ tăng 2,57%; giá dịch vụ trong gia đình tăng 7,69%; giá vật phẩm tiêu dùng khác tăng 3,34%. Ở chiều ngược lại giá tủ lạnh giảm 3,31%, giá máy giặt giảm 0,27%, giá đồ dùng nấu ăn giảm 0,33%.
- Nhóm thuốc và thiết bị y tế tăng 9,45%, chủ yếu là do giá dịch vụ y tế tăng 10,79%; giá thuốc các loại tăng 4,15%; giá dụng cụ y tế tăng 1,83%.
- Nhóm giao thông tăng 0,02%, chủ yếu là do giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 14,41%, trong đó vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 318,0%, là do tăng giá vé các dịp Lễ, Tết vận chuyển hành khách bằng các loại phương tiện để bù chiều vắng hoặc ít khách; giá phụ tùng tăng 8,7%. Ở chiều ngược lại, giá nhiên liệu giảm 3,11%, trong đó giá xăng giảm 3,16%, giá dầu dizel giảm 4,42%.
- Nhóm giáo dục tăng 2,45%, trong đó giá các loại văn phòng phẩm tăng 3,76% là do giá sản phẩm từ giấy tăng 9,52%; giá dịch vụ giáo dục tăng 2,06% là do giá học phí đại học và học phí mầm non tư thục tăng.
- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,44%, tăng chủ yếu là do giá đồ dùng cá nhân tăng 8,08%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 11,24%, giá đồ trang sức tăng 23,82% do tăng theo giá vàng; nhóm dịch vụ khác tăng 19,39%, là do giá bảo hiểm y tế tăng 25,11%.
Các nhóm hàng giảm giá:
- Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 5,47% là do giá các loại điện thoại di động thế hệ cũ giảm 14,95%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 21,62%.
- Nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 1,99%, giảm chủ yếu là do giá thiết bị văn hóa giảm 10,82%, trong đó giá tivi màu giảm 11,16%. Ở chiều ngược lại, giá khách sạn nhà hàng tăng 5,22%, trong đó giá khách sạn tăng 4,83%; giá hoa, cây cảnh tăng 5,45%.
b) Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
- Chỉ số giá vàng (-1,42%)
Giá vàng trong nước biến động giảm cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 12/2024 giảm 1,42% so với tháng trước; tăng 17,42% so với tháng 12/2023. Bình quân năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 20,56%.
- Chỉ số giá đô la Mỹ (+0,04%)
Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 12/2024 giao dịch bình quân quanh mức 25.486 VND/USD, tăng 0,04% so với tháng trước; tăng 4,1% so với tháng 12/2023. Bình quân năm 2024 so với năm trước tăng 4,7%.
c) Chỉ số giá sản xuất
- Giá sản xuất nông lâm thuỷ sản
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản Quý IV/2024 tăng 9,7% so với quý trước và tăng 25,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 10,33% so với quý trước và tăng 27,79% so với cùng kỳ năm trước; Lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 0,14% so với quý trước và tăng 1,34% so với cùng kỳ năm trước; Thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 1,55% so với quý trước và tăng 2,82% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 13,43% so với năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 14,34%; Lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,4%; Thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 2,59% so với năm trước.
- Giá sản xuất công nghiệp
Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý IV năm 2024 giảm 7,76% so với quý trước, tăng 3,49% so với cùng kỳ năm trước và tăng 15,76% so với kỳ gốc năm 2020. Tính chung cả năm 2024, chỉ số giá sản xuất công nghiệp tăng 5,55% so với cùng kỳ năm trước và tăng 20,55% so với kỳ gốc năm 2020. Trong đó, Quý I tăng 5,91%; Quý II tăng 4,79%, quý III tăng 8,05%, quý IV tăng 3,49% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo từng nhóm ngành cụ thể như sau: nhóm ngành khai khoáng tăng 7,45%; nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,39%; nhóm ngành điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,21%;nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,86% so với cùng kỳ năm trước
4. Đầu tư và xây dựng
Hoạt động đầu tư nói chung trên địa bàn tỉnh cơ bản được duy trì ổn định, có sự tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2024 ước tính đạt 27.650 tỷ đồng, tăng 18,58% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý năm 2024 đạt 3.425 tỷ đồng, tăng 2,02% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế .
a) Vốn đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum quý IV năm 2024 ước tính là 7.263,5 tỷ đồng, tăng 10,87% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 1.933,4 tỷ đồng, tăng 3,28% so với cùng kỳ và chiếm 26,62% trong tổng nguồn vốn; Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 5.325,3 tỷ đồng, tăng 16,33% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 73,32% trong tổng nguồn vốn; Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 4,8 tỷ đồng, chiếm 0,07% trong tổng nguồn vốn
Tính chung cả năm 2024 vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính đạt 27.560 tỷ đồng, tăng 18,58% so với cùng kỳ năm trước.
- Phân theo nguồn vốn:
Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 6.223 tỷ đồng, tăng 3,61% so với cùng kỳ và chiếm 22,58% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước do trung ương quản lý là 2.663 tỷ đồng, nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý là 3.560 tỷ đồng, chủ yếu đầu tư phát triển các chương trình mục tiêu, xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế, ...
Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 21.319 tỷ đồng, tăng 24,54% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 77,36% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là 10.831 tỷ đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 10.489 tỷ đồng, chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, ...
Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 18 tỷ đồng, chiếm 0,07% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Phân theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư XDCB: 19.973 tỷ đồng, chiếm 72,47% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư mua sắm TSCĐ dùng cho sản xuất không qua XDCB: 4.068 tỷ đồng, chiếm 14,76% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ: 3.156 tỷ đồng, chiếm 11,45% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 362 tỷ đồng, chiếm 1,31% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư khác: 2 tỷ đồng, chiếm 0,01% trong tổng nguồn vốn.
Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn cả năm 2024
Ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum cả năm 2024 đạt 3.425 tỷ đồng, tăng 2,02% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
- Vốn Ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 2.118 tỷ triệu đồng, tăng 1,59% so với cùng kỳ và chiếm 61,63% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, môi trường nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn... Trong đó: Vốn cân đối ngân sách tỉnh là 1.200 tỷ đồng, chiếm 56,69%; Vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 805 tỷ triệu đồng, chiếm 38,03%; Vốn ODA là 34 tỷ đồng, chiếm 1,61%; Vốn xổ số kiến thiết là 78 tỷ đồng, chiếm 3,67% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh.
- Vốn Ngân sách Nhà nước cấp huyện là 1.307 tỷ đồng, tăng 2,71% so với cùng kỳ và chiếm 38,17% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa… trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách huyện là 538 tỷ đồng, chiếm 41,18%; Vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 769 tỷ đồng, chiếm 58,82%.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp xã không phát sinh.
Nhìn chung, trong năm 2024 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh có tăng so với cùng kỳ nhưng chậm hơn so với kế hoạch vốn đã được giao. Cụ thể một số dự án như: Dự án Kè chống lũ lụt, sạt lở các làng đồng bào dân tộc thiểu số dọc sông ĐăkBla trên địa bàn thành phố Kon Tum; Dự án đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum với các huyện Sơn Tây, Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Dự án nâng cấp mở rộng tỉnh lộ 671 do Sở Giao thông vận tải Kon Tum làm chủ đầu tư, và dự án đường giao thông từ xã Đắk Pne, huyện Kon Rẫy đi huyện Kbang (tỉnh Gia Lai) do Uỷ ban nhân dân huyện Kon Rẫy làm chủ đầu tư, nguyên nhân do đền bù, giải phóng mặt bằng và thiếu nguyên vật liệu đắp đường.
b) Thu hút đầu tư trong và ngoài nước
- Công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh được chỉ đạo triển khai quyết liệt, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, bình đẳng; đồng thời chủ động trong việc tiếp xúc, kêu gọi, làm việc với nhà đầu tư, doanh nghiệp thông qua việc duy trì chương trình Cà phê doanh nghiệp - Doanh nhân hằng tháng và tổ chức Đối thoại doanh nghiệp lần thứ nhất năm 2024 để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, đã chỉ đạo tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tỉnh Kon Tum nhằm rà soát, đánh giá kết quả, làm rõ trách nhiệm của các đơn vị liên quan đến từng chỉ số thành phần của chỉ số PCI năm 2023 của tỉnh Kon Tum. Công tác phát triển doanh nghiệp và thu hút đầu tư tiếp tục được chú trọng triển khai. Từ đầu năm đến nay, đã thu hút 16 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 1.205 tỷ đồng.
c) Xây dựng
Trong năm 2024, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư; Tỉnh Kon Tum đã chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình nhất là các công trình trọng điểm. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư và tập trung nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm của tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; cuối tháng 3/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành kế hoạch kiểm tra, giám sát 12 chương trình, dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh năm 2024, đồng thời ban hành các văn bản tiếp tục tăng cường tháo gỡ, khó khăn, vướng mắc, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án ngoài ngân sách trên địa bàn tỉnh. Trong năm 2024, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục tích cực triển khai những công trình chuyển tiếp từ năm 2023 đồng thời khởi công các công trình mới có vốn đầu tư cao. Trong các tháng cuối năm, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trọng điểm có nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng như các công trình do doanh nghiệp ngoài nhà nước đầu tư xây dựng.
Giá trị sản xuất quý IV năm 2024 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành ước đạt 6.379 tỷ đồng, tăng 11,77% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024 giá trị sản xuất năm 2024 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành ước đạt 21.166 tỷ đồng, tăng 9,58% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại công trình: Công trình nhà ở đạt 5.185 tỷ đồng, chiếm 24,5% trong tổng số và giảm 0,69% so với cùng kỳ năm trước; Công trình nhà không để ở đạt 1.239 tỷ đồng, chiếm 5,85% trong tổng số và tăng 39,86% so với cùng kỳ năm trước; Công trình kỹ thuật dân dụng: 14.441 tỷ đồng, chiếm 68,23% trong tổng số và tăng 11,97% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động xây dựng chuyên dụng: 301 tỷ đồng, chiếm 1,42% trong tổng số và giảm 3,41% so với cùng kỳ năm trước.
- Giá trị sản xuất năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước tập trung ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước với các công trình trọng điểm về kỹ thuật dân dụng và nhà không để ở. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên, đột xuất đường bộ Quốc lộ 14, 24, các tỉnh lộ...; thực hiện công trình đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, sửa chữa trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc trên địa bàn các huyện, thành phố... Các loại hình kinh tế khác (hộ dân cư, xã/phường/thị trấn) hoạt động xây dựng chủ yếu do hộ dân cư đầu tư xây dựng nhà ở mới, sửa chữa nhà ở và các công trình liên quan (sân, tường rào, nhà kho, các công trình khác…); các đơn vị xã, phường, thị trấn cùng Nhân dân thực hiện thi công các công trình nhà văn hóa, nhà rông, hội trường, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, xây dựng các cầu dân sinh, bê tông hóa các đường liên thôn, liên xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới...
Công trình trọng điểm thực hiện trong kỳ: Trong năm 2024, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai thi công các công trình trọng điểm chuyển tiếp từ năm 2023, đồng thời các công trình mới có vốn đầu tư cao như:
- Công trình kỹ thuật dân dụng: Đường trục chính phía Tây thành phố Kon Tum; Khu đô thị, du lịch sinh thái nghỉ dưỡng kết hợp thể thao tại xã Đăk Rơ Wa; Đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum với các huyện Sơn Tây, Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Mở rộng, nâng cấp đường Trường Chinh, thành phố Kon Tum; Kè chống sạt lở dọc sông Đăk Bla; các công trình chỉnh trang đô thị thành phố Kon Tum (cải tạo vỉa hè, hệ thống thoát nước, mặt đường... ở các tuyến đường chính nội thành gồm Lê Hồng Phong, Nguyễn Huệ, Phan Chu Trinh, Ngô Quyền và U Re); Khai thác quỹ đất phát triển kết cấu hạ tầng Đường bao khu dân cư phía Nam thành phố Kon Tum (đoạn từ đường Hồ Chí Minh đến cầu treo Kon Klor); Đường giao thông từ xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy đi huyện Kbang tỉnh Gia Lai; Nâng cấp tuyến đường Đăk Man - Đăk Blô huyện Đăk Glei; Đường từ trung tâm huyện Sa Thầy đi Nhà máy thủy điện Ialy; Xây dựng cầu và đường hai đầu cầu từ bến du lịch xã Ia Chim, thành phố Kon Tum (Tỉnh lộ 671) đến đường giao thông kết nối với Tỉnh lộ 675A xã Ya Ly huyện Sa Thầy; cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 675 đoạn từ Km0 – Km24; Sửa chữa nâng cấp hệ thống tưới hồ chứa Đăk Car và đập Đăk Sia II huyện Sa Thầy; Công trình Đường trung tâm phía Nam thị trấn Plei Kần,... Các dự án phát triển hạ tầng tại khu vực khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen: dự án Đường từ Quốc lộ 24 đi khu nghỉ dưỡng khu vực Đông Nam; dự án đường từ trung tâm huyện Kon Plông kết nối đường Đông Trường Sơn; nâng cấp, mở rộng đường Trần Hưng Đạo thị trấn Măng Đen... Công trình thủy điện: Dự án Nhà máy Thủy điện Ialy mở rộng; Thủy điện Plei kần hạ; Thủy điện Nước Long 1, Thủy điện Đăk Mi, Thủy điện Thượng Nam Vao...
- Công trình nhà không để ở: Công trình Nâng cấp Trung tâm Y tế huyện Ia H’Drai (Hạng mục: Xây dựng bệnh viện Đa khoa huyện 60 giường bệnh); Công trình Đầu tư xây mới, nâng cấp, cải tạo 03 Bệnh viện đa khoa khu vực, trung tâm y tế tuyến huyện (Ngọc Hồi, Đăk Glei và Đăk Hà); Nhà thi đấu tổng hợp tỉnh Kon Tum; Trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành và các hạng mục phụ trợ; Trụ sở làm việc các đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh; Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum; Trụ sở Công an tỉnh Kon Tum; Trụ sở Công an huyện Kon Plông; Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tỉnh Kon Tum; Khách sạn Đăk Blà; Sửa chữa nâng cấp trường Cao đẳng Kon Tum...
5. Doanh nghiệp
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp
- Trong tháng 12 (tính đến 20/12/2024) toàn tỉnh có 18 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn điều lệ là 97 tỷ đồng, 02 doanh nghiệp hoạt động trở lại, 04 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, 16 doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể và 06 doanh nghiệp đã giải thể.
Tính chung năm 2024 (tính đến 20/12/2024) có 301 doanh nghiệp thành lập mới tăng 5,24 % so với cùng kỳ năm trước với 1.832 lao động và tổng vốn điều lệ là 2.200 tỷ đồng giảm 26,42% so với cùng kỳ năm trước, 49 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 50% so với cùng kỳ năm trước, 192 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 2,12% so với cùng kỳ năm trước, 116 doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể và đã giải thể tăng 36,47% so với cùng kỳ năm trước.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
- Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong Quý IV/2024 cho thấy: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Quý IV năm 2024 nhìn chung tương đối thuận lợi, phần lớn các doanh nghiệp đã vượt qua giai đoạn khó khăn, có 55,88% đơn vị có đánh giá tình hình tốt hơn quý trước; 29,41% đánh giá giữ nguyên và chỉ còn 14,71% đơn vị đánh giá tình hình có khó khăn hơn so với quý trước. Trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp đều dự báo tình hình sản xuất sẽ tốt hơn, cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất tốt hơn chiếm 52,94%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 32,35%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất khó khăn hơn còn 14,71%.
- Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng quý IV năm 2024 nhìn chung tương đối ổn định, trong đó số doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn chiếm 57,1%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn là các doanh nghiệp đang có công trình lớn trên địa bàn thực hiện chuyển tiếp của năm 2023 và các doanh nghiệp có khởi công công trình mới trong kỳ, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình trong các tháng cuối năm 2024. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh không thay đổi chiếm 40,9%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn chiếm tỷ lệ 2%; chủ yếu là những doanh nghiệp ít công trình chuyển tiếp từ năm 2023 và chưa có nhiều hợp đồng xây dựng mới trong năm.
Nhận định về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất ngành xây dựng không thay đổi so với quý trước. Cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động xây dựng thuận lợi hơn chiếm 12,2%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất không đổi chiếm tỷ lệ 57,2%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất khó khăn hơn chiếm 30,6%.
Các đơn vị doanh nghiệp xây dựng đánh giá tổng thể về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo dựa trên cơ sở nhiều yếu tố. Trong đó, tổng chi phí cho hoạt động xây dựng là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quý tiếp theo có 75,5% số doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí không đổi hoặc tăng lên so với quý trước, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá chi mua nguyên vật liệu xây dựng không đổi hoặc tăng lên và chi phí nhân công không đổi hoặc tăng lên đều chiếm tỷ lệ 77,6%. Các doanh nghiệp đánh giá mức chi phí giảm xuống chủ yếu là những doanh nghiệp thực hiện nhiều công trình từ nguồn vốn đầu tư công nên quý đầu năm giải ngân ít hơn so với quý cuối năm.
Về tình hình sử dụng lao động: trong quý tiếp theo có 4,1% số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động tăng hơn so với quý trước. Doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên tăng chiếm 4,1% và nhận định lao động thời vụ tăng chiếm 6,1%. Số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động không thay đổi so với quý trước chiếm tỷ lệ 57,1%; tỷ lệ doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên không thay đổi chiếm 83,7% và số doanh nghiệp nhận định lao động thời vụ không thay đổi chiếm 51,0%. Có 28,6% doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động giảm trong quý tiếp theo, trong đó tỷ lệ doanh nghiệp có lao động thường xuyên giảm chiếm 10,2%, doanh nghiệp có lao động thời vụ giảm chiếm 30,6%.
Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý IV năm 2024 là không có hợp đồng xây dựng mới, không biết đến thông tin đấu thầu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế và thiếu nguồn cung về nguyên vật liệu. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong quý tiếp theo nhiều nhất là giá nguyên vậy liệu tăng cao (chiếm 40,8%); thiếu nguồn cung nguyên vật liệu xây dựng (chiếm 34,7%); năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế (chiếm 34,7%); không có hợp đồng xây dựng mới (chiếm 32,7%); … Về mong muốn được nhận hỗ trợ của doanh nghiệp: 30,6% doanh nghiệp muốn được hỗ trợ nguyên vật liệu; 24,5% doanh nghiệp mong muốn thông tin đấu thầu công khai, minh bạch; 8,2% mong muốn có chế tài xử phạt chủ đầu tư chậm thanh quyết toán nợ đọng xây dựng cơ bản; 28,6% doanh nghiệp cần được bàn giao mặt bằng đúng tiến độ…
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong năm 2024, tình hình thới tiết trên địa bàn tỉnh so với năm trước có mưa nhiều, lượng mưa trải đều các tháng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, hồ, đập thủy điện tăng. Các công trình hồ, đập thủy điện đã được đầu tư kiên cố, cơ bản đáp ứng đủ nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy, mà nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản năm 2024 đã đáp ứng được yêu cầu, tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
a) Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp năm 2024 cơ bản tương đối ổn định, năng suất lúa và một số cây trồng khác tăng nhẹ so với năm trước; sản lượng một số loại cây lâu năm tăng nhẹ, giá thành sản phẩm một số loại như cà phê, sầu riêng… tăng so với năm trước nên người dân phấn khởi yên tâm đầu tư, chăm sóc cây trồng cho năm tiếp theo.
Trồng trọt
- Tình hình sản xuất cây hàng năm vụ đông xuân 2024 - 2025
Ước tính đến thời điểm ngày 20/12/2024, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ Đông xuân 2024-2025 tỉnh Kon Tum là: 1.980 ha, tăng 11,13% (+198,3 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó DT lúa đã gieo trồng là: 751 ha, tăng 33,59% (+188,8 ha). Tăng chủ yếu ở huyện Đắk Hà, Sa Thầy do điều kiện thời tiết thuận lợi người dân thu hoạch lúa vụ mùa sớm nên xuống giống vụ đông xuân sớm. Các loại cây khác đã gieo trồng được: 39 ha ngô; 757 ha rau các loại; 17 ha đậu các loại; 82 ha hoa các loại; 16 ha khoai lang...
Hiện nay, bà con nông dân đang tiến hành cải tạo đất và chuẩn bị đất gieo trồng Vụ đông xuân 2024 - 2025 cho kịp thời vụ và tránh khi xuống giống bị ảnh hưởng không khí lạnh. Đối với diện tích đã được gieo trồng, lượng nước tưới đảm bảo, phát triển tốt, chưa có hiện tượng thiếu nước và sâu bệnh xảy ra.
- Tình hình sản xuất cây hàng năm năm 2024
Năm 2024 tỉnh Kon Tum gieo trồng được 76.573 ha, tăng 0,52% (+395,9 ha) so với chính thức năm trước. Trong đó:
Cây lúa
Vụ Đông xuân 2023-2024, DTGT đạt 7.229 ha, giảm 0,88% (-64,9 ha).
Vụ mùa, DTGT đạt 15.170 ha, giảm 1,72% (-265,86 ha). Trong đó: Cây lúa ruộng diện tích ước đạt: 12.727 ha, tăng 0,98% (+122,94 ha); Cây lúa rẫy diện tích ước đạt: 2.443 ha, giảm 13,73% (-388,8 ha), diện tích lúa rẫy giảm chủ yếu ở huyện Tu Mơ Rông, Đăk Glei. Cây lúa rẫy giảm do hiệu quả kinh tế không cao nên người dân chuyển sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn như: cây ăn quả, dược liệu…
Năng suất lúa cả năm ước đạt: 45,64 tạ/ha, tăng 3,45%; Sản lượng lúa đạt: 102.229,86 tấn, tăng 1,94% (+1.949,73 tấn) so với năm trước. Năm nay người dân chuyển sang trồng một số giống lúa mới cho năng suất cao như Khang dân đột biến, Tám thơm đột biến và đầu tư chăm sóc tốt nên năng suất lúa tăng.
Cây trồng khác năm 2024
Cây ngô DTGT ước đạt 4.432 ha, giảm 12,0% (-604,5 ha). Diện tích ngô giảm do những năm gần đây giá ngô thấp nên người dân chuyển đổi sang trồng cây sắn, cây lâu năm như cây ăn quả, dược liệu...
Cây sắn DTGT ước đạt: 40.022 ha, tăng 1,88 (+738,01 ha).
Cây mía DTGT ước đạt: 1.521 ha, tăng 24,73% (+301,52 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở thành phố Kon Tum, Đăk Tô, Kon Rẫy do nhà máy đường kết hợp với người dân khôi phục lại diện tích mía đã bỏ trống từ các năm trước.
Rau các loại DTGT ước đạt: 3.384 ha, tăng 9,57% (+ 295,62 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở Đăk Glei, Kon Plong, do thời tiết thuận lợi, nhiều doanh nghiệp và hộ dân đầu tư trồng rau theo dự án rau hoa xứ lạnh.
Đậu các loại DTGT ước đạt: 508 ha, tăng 8,65% (+ 40,5 ha).
Các loại cây hàng năm khác DTGT đạt: 3.090 ha, giảm 2,5% (-81,98 ha) so với năm trước.
Về năng suất, sản lượng:
Năng suất ngô ước đạt: 43,14 tạ/ha, tăng 0,37%; Sản lượng ngô ước đạt: 19.121 tấn, giảm 11,67% (-2.527,32 tấn) so với năm trước. Sản lượng ngô giảm là do diện tích gieo trồng ngô giảm.
Năng suất sắn ước đạt: 162 tạ/ha, tăng 2,80%; Sản lượng đạt: 648.352 tấn, tăng 4,73% (+29.287,56 tấn). Năng suất sắn tăng là do thời tiết thuận lợi, người dân đầu tư chăm sóc tốt và một số địa phương chuyển đổi trồng giống sắn siêu củ nên năng suất tăng.
Năng suất mía ước đạt: 560,5 tạ/ha, tăng 0,90%; sản lượng đạt: 85.251 tấn, tăng 25,85% (+17.510,78 tấn). Sản lượng tăng là do năng suất và diện tích gieo trồng tăng cao.
Năng suất rau các loại ước đạt: 134,21 tạ/ha, tăng 0,30%; sản lượng đạt: 45.414 tấn, tăng 9,90% (+4.090,22 tấn). Sản lượng tăng do DTGT tăng.
Năng suất đậu các loại ước đạt: 16,68 tạ/ha, tăng 0,9%; sản lượng đạt: 848 tấn, tăng 9,64% (+74,5 tấn). Sản lượng tăng do DTGT tăng.
Nhìn chung năng suất, sản lượng của các loại cây đều tăng do năng suất Vụ mùa tăng. Năng suất tăng do nguời dân chuyển đổi sang các loại giống mới cho năng suất cao, mặt khác các loại sâu bệnh xuất hiện được phòng trừ kịp thời; ngoài ra cùng với sự quan tâm, chỉ đạo và thường xuyên hướng dẫn các nghiệp vụ sản xuất trồng trọt của các sở, ngành đến người dân nên kết quả sản xuất cây trồng hàng năm năm 2024 tăng so với năm trước.
Cây lâu năm năm 2024
Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh năm 2024 hiện có 138.494 ha, tăng 6,14% (+8.012 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Diện tích cây ăn quả 16.710 ha, tăng 19,19% (+2.690,4 ha); diện tích cây lấy quả chứa dầu 85,4 ha, tăng 7,12% (+5,7 ha); diện tích điều 1.596,8 ha, giảm 3,91% (-65 ha); diện tích hồ tiêu 338,2 ha, giảm 0,67% (-2,3 ha); diện tích cao su 81.613,7 ha, tăng 3,19% (+2.522,6 ha); diện tích cây cà phê 31.549,8 ha, tăng 5,71% (+1.704,2 ha); diện tích cây chè 212,6 ha, tăng 49,72% (+70,6 ha); cây gia vị, cây dược liệu lâu năm 5.958,1 ha, tăng 21,7% (+1.062,3 ha); diện tích cây lâu năm khác 429,8 ha, tăng 5,78% (+23,5 ha).
Cây ăn quả có diện tích tăng cao so với cùng kỳ năm trước là do các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại; đồng thời, có sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện về trồng cây ăn quả chất lượng cao trong dân cư, đặc biệt là cây mắc ca, sầu riêng, mít... và cây dược liệu; các loại cây ăn quả năm trước hiệu quả kinh tế không cao người dân đã phá bỏ trồng lại các loại cây ăn quả mới. Trong đó:
+ Cây sầu riêng: Diện tích hiện có 3.751 ha, tăng 46,75% (+1.194,91 ha) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thu hoạch 2.802 tấn, tăng 31,31% (+668,1 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
+ Cây Mắc ca: Diện tích hiện có 4.142 ha, tăng 18,27% (+639,9 ha) so với cùng kỳ năm trước; Diện tích tăng là do người dân được Nhà nước hỗ trợ trồng và thấy được tính hiệu quả trong kinh tế nên đã tập trung đầu tư, chăm sóc. Sản lượng thu hoạch 585 tấn tăng 81,42% (+262,5 tấn) so với cùng kỳ năm trước, Sản lượng tăng là do diện tích cho sản phẩm tăng cao.
Cả năm, sản lượng chuối ước đạt 18.388 tấn, tăng 5,53% (+963,7 tấn); Sản lượng sầu riêng ước đạt 2.802 tấn, tăng 31,31% (+668,1 tấn); Sản lượng chanh leo ước đạt 6.590 tấn, tăng 0,17% (+11,3 tấn); Sản lượng cam ước đạt 4.120 tấn, tăng 21,1% (+717,9 tấn)…
Diện tích cây điều hiện có 1.597 ha, giảm 3,91% (-65 ha) so với cùng kỳ năm trước; Diện tích giảm là do các hộ dân phá bỏ chuyển sang trồng cây lâu năm khác. Sản lượng thu hoạch 870 tấn, giảm 2,2% (-19,5 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích cây hồ tiêu hiện có 338 ha, giảm 0,67% (-2,3 ha) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thu hoạch 535 tấn, tăng 2,92% (+15,2 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích cây cao su hiện có 81.614 ha, tăng 3,19% (+2.522,6 ha) so với cùng kỳ năm trước. Đây là loại cây có tỷ trọng diện tích lớn nhất trong tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh. Cao su là loại cây công nghiệp chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao, những nơi có diện tích cao su lớn như Sa Thầy, Ia H’Drai, diện tích cao su tăng do người dân trồng lại trên các diện tích cây đã chặt bỏ những năm trước; Sản lượng thu hoạch 97.889 tấn, tăng 6,49% (+5.969,8 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thu hoạch tăng là do giá bán mủ cao su năm nay ổn định hơn năm trước nên đã khuyến khích người dân tăng cường đầu tư khai thác.
Diện tích cây cà phê hiện có 31.550 ha, tăng 5,71% (+1.704,2 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích tăng là do thấy được hiệu quả kinh tế nên người dân chuyển đổi các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng cà phê; Sản lượng thu hoạch 69.644 tấn, tăng 5,24% (+3.465,5 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thu hoạch tăng là do năm nay giá cà phê tăng cao so với những năm trước, nên người dân tăng cường đầu tư, chăm sóc.
Chăn nuôi
Hoạt động Chăn nuôi được các ngành chức năng quan tâm đầu tư mở rộng, chăn nuôi gia cầm đạt kết quả tích cực; dịch bệnh trên vật nuôi được phòng, chống và xử lý kịp thời.
- Tình hình chăn nuôi
Năm 2024 tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định. Trong đó, chăn nuôi trâu, bò tăng so với năm trước; Chăn nuôi lợn, gia cầm phát triển mạnh theo hướng tập trung, qui mô lớn. Giá lợn giống đã giảm nhiều, trong khi giá thịt lợn hơi xuất chuồng tăng lên đáng kể so với cùng kỳ năm trước, nên đàn lợn phục hồi mạnh. Đàn gia cầm phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường.
Tổng đàn trâu hiện có 25.000 con, tăng 3,69% (+890 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng năm 2024 là 3.160 con, tăng 1,97% (+61 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 808 tấn, tăng 1,89% (+14,9 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn bò hiện có 100.015 con, tăng 17,5% (+14.895 con) so với cùng kỳ năm trước. Số lượng đàn bò tăng là do nhiều hộ dân được hỗ trợ giống từ các dự án và chương trình mục tiêu quốc gia nên số lượng đàn bò tăng cao ở một số huyện như Đăk Tô, Sa Thầy, Ia H’Drai. Số con xuất chuồng là 34.020 con, tăng 2,5% (+820 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 5.662 tấn, tăng 2,68% (+143,6 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn hiện có 220.000 con, tăng 25,85% (+45.186 con) so với cùng kỳ năm trước). Đàn lợn tăng là do trong thời gian qua giá lợn hơi ổn định, nhu cầu thịt lợn cao, việc chăn nuôi lợn mang lại hiệu quả kinh tế cao, người dân đầu tư nuôi lợn nhiều và hiện nay mô hình nuôi gia công với chi phí thấp, nên một số doanh nghiệp, trang trại và hộ dân đang mở rộng chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, do Công ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P Việt Nam – Chi Nhánh NM 2 Tại Bình Định đầu tư nuôi lợn thịt tại xã Rờ Kơi, huyện Sa Thầy nên làm cho tổng đàn lợn trên địa bàn tỉnh tăng cao. Số con xuất chuồng là 311.025 con, tăng 4,1% (+12.313 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 24.255 tấn, tăng 5,0% (+1.143,2 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn gia cầm 2.187.410 con, tăng 4,54% (+95.070 con) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà 1.925.000 con, tăng 4,67% (+85.860 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 6.462 tấn, tăng 4,40% (+272,62 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 5.820 tấn, tăng 4,4% (+233.13 tấn).
Tình hình dịch bệnh
Trong năm 2024, tình hình dịch bệnh động vật trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, không phát sinh các loại dịch bệnh như Cúm gia cầm, Viêm da nổi cục trâu bò, Tai xanh và dịch bệnh trên thủy sản nuôi. Một số dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở động vật như bệnh Lở mồm long móng ở trâu bò, bệnh Dại chó mèo, bệnh Dịch tả lợn Châu Phi có xảy ra với quy mô nhỏ, cụ thể như sau:
Bệnh Lở mồm long móng ở trâu, bò: xảy ra trên địa bàn các huyện Đăk Glei, Tu Mơ Rông và thành phố Kon Tum làm cho 102 con trâu bò mắc bệnh. Các địa phương đã triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống theo quy định, chăm sóc và nuôi dưỡng khỏi triệu chứng lâm sàng cho 93 con gia súc, tiêu huỷ 09 con gia súc bị chết do mắc bệnh.
Bệnh Dại chó, mèo xảy ra tại 05 xã thuộc 02 huyện là Ya Ly, Sa Bình, Ya Xiêr, huyện Sa Thầy và xã Ia Tơi, Ia Dom, huyện Ia H’Drai. Địa phương đã phát hiện sớm, triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định, tổ chức tiêu huỷ 142 con chó, mèo (03 con chó mắc bệnh dại, 137 con chó và 02 con mèo bị phơi nhiễm với bệnh Dại). Các ổ bệnh Dại đã được khống chế, dập tắt kịp thời, không lây lan bùng phát trên diện rộng và không lây nhiễm sang con người.
Bệnh Dịch tả lợn Châu phi: xảy ra tại 13 hộ chăn nuôi/ 09 thôn/07 xã, thị trấn/05 huyện (Ngọc Hồi, Đăk Glei, Ia H’Drai, Đăk Hà, Đăk Tô), làm cho là 327 con.
b). Lâm nghiệp
Hoạt động Lâm nghiệp được UBND tỉnh đặc biệt quan tâm đã triển khai nhiều giải pháp tích cực; tuyên truyền, chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan tăng cường công tác bảo vệ rừng và nâng cao nhận thức của người dân đã góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.
Trong năm 2024, Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt kiểm tra, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.
Tính đến 20/12/2024, trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng, xảy ra 13 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 7,5 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Ước tính đến thời điểm 31/12/2024, tổng diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 3.288 ha, giảm 39,98% (-1.848 ha) so với năm trước. Diện tích rừng trồng mới giảm là do kế hoạch trồng rừng mới của tỉnh năm trước tăng cao.
Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 31/12/2024, trên địa bàn tỉnh tổng lượng gỗ khai thác các loại đạt 164.165 m3, tăng 1,89 % (+3.017 m3) so với năm trước; Lượng củi khai thác đạt 292.560 ster, tăng 2,44% (+6.981 ster) so với năm trước. Sản lượng gỗ và củi tăng là do nhu cầu thị trường tăng nên doanh nghiệp và người dân tăng sản lượng khai thác.
c) Thuỷ sản
Hoạt động nuôi trồng Thủy sản được Nhân dân đầu tư phát triển, diện tích nuôi trồng tăng so với năm trước. Trong năm lượng mưa nhiều làm cho lượng nước sông, suối, đập thủy điện được mở rộng, tạo điều kiện cho hoạt động nuôi trồng nên sản lượng nuôi trồng tăng so với năm trước.
Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
- Ước tính diện tích nuôi trồng thủy sản đến 31/12/2024 là 1.018 ha, tăng 6,60% (+63 ha), so với năm trước, diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng so với năm trước là do một số năm gần đây giá thuỷ sản tăng, bên cạnh đó tình hình dịch bệnh không xảy ra nên người dân yên tâm và tăng đầu tư.
- Sản lượng thủy sản năm 2024 tỉnh Kon Tum đạt 8.425 tấn, tăng 4,14% (+343 tấn) so với năm trước. Trong đó: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 2.175 tấn, chiếm 25,8%; Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 6.250 tấn, chiếm 74,2%.
+ Sản lượng khai thác thủy sản : Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 2.175 tấn, tăng 0,09% (+2 tấn) so với năm trước. Nhìn chung trong năm 2024 những tháng đầu năm thời tiết trên địa bàn tỉnh có xảy ra khô hạn hơn so với những năm trước, tuy nhiên việc khai thác thuỷ sản trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung tại các đập thuỷ điện, thuỷ lợi có lòng hồ lớn nên sản lượng khai thác được vẫn ổn định so với năm trước.
+ Sản lượng nuôi trồng thủy sản: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 6.250 tấn, tăng 5,65% (+341 tấn) so với năm trước. Nhìn chung sản lượng nuôi trồng tăng chủ yếu là do diện tích nuôi trồng tăng 6,6% (+63 ha) so với năm trước.
7. Sản xuất công nghiệp
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 12 và năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12 ước tính tăng 3,86% so với tháng trước và tăng 8,89% so với cùng kỳ năm trước; quý IV/2024, chỉ số IIP tăng 10,06% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, chỉ số IIP tăng 10,08% so với năm 2023, trong đó ngành khai khoáng tăng 13,07%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,62%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,38%; ngành cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 15,41%.
a) Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 năm 2024 ước tính tăng 8,89% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 14,28%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang tập trung thi công để đảm bảo kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng trong và ngoài tỉnh. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,13%, trong đó tăng cao ở một số ngành như chế biến gỗ (do nguồn nguyên liệu gỗ cây cao su hết chu kỳ cho sản phẩm được khai thác lấy gỗ); sản xuất các sản phẩm từ cao su (mủ cao su khai thác trên địa bàn); sản xuất cấu kiện kim loại... đều do nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định... .Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 14,02%, do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao, hệ thống cung cấp nước được đầu tư nâng cấp và mở rộng hơn, tăng số lượng khách hàng sử dụng nước sạch; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom, xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy. Ngành sản xuất phân phối điện tăng tăng 8,64% do điều tiết hoạt động chung của ngành điện.
So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 ước tính tăng 3,86%. Trong đó ngành khai thác khoáng sản tăng 7,40%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,29%, trong đó tăng cao nhất ở ngành chế biến thực phẩm (tăng 18,30%), chủ yếu tăng ở ngành chế biến thực phẩm; tháng 12 trên địa bàn tỉnh bắt đầu vào vụ thu hoạch mía nguyên liệu, Công ty Cổ phần Đường Kon Tum đã thu mua nguyên liệu và hoạt động trở lại sau thời gian tạm nghỉ mùa vụ nên chỉ số ngành chế biến thực phẩm tăng mạnh. Ngành sản xuất phân phối điện tăng 1,85%. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp Quý IV năm 2024 ước tính tăng 10,06% so cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 13,94%, do trong quý trên địa bàn tỉnh đang tập trung thi công, đẩy nhanh tiến độ nhiều công trình xây dựng, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,23%, trong đó tăng chủ yếu ở một số ngành như chế biến gỗ, sản xuất hóa chất (cồn sinh học), sản xuất sản phẩm từ cao su, khoáng phi kim loại, sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sắn... do nguồn cung cấp nguyên liệu đảm bảo và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,13% do thời tiết thuận lợi, các nhà máy thủy điện luôn hoạt động ổn định; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 16,52% do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao, hệ thống cung cấp nước được đầu tư, nâng cấp và mở rộng đến nhiều khu dân cư; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy.
Tính chung cả năm năm 2024 chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 10,08% so với năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 13,07%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,62%; Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,38%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,41% với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II so với năm trước: Khai khoáng khác tăng 13,07%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,56%; Sản xuất trang phục tăng 9,18%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,07%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 21,90%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 8,87%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 12,31%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 14,74%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 14,49%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 14,84%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,29%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,38%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 11,39%...
b) Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất Quý IV năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 171.606 m3, tăng 12,09%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 117.114 tấn, tăng 6,42%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 75,41 triệu viên, tăng 10,39%; điện sản xuất 1.223 triệu Kwh, tăng 8,51%.
Tính chung cả năm 2024 một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu so với năm trước như sau: Điện sản xuất đạt 3.624,8 triệu Kwh tăng 8,74%; Đá xây dựng khác 537.671m3, tăng 12,23%; Tinh bột sắn đạt 293.510 tấn tăng 6,27%; Đường RE đạt 16.251 tấn, tăng 31,57%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 40.852 m3, tăng 21,90%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 249 triệu trang tăng 8,87%; Cồn béo công nghiệp đạt 10.882 tấn tăng 12,11%; Phân vi sinh đạt 1.303 tấn tăng 14,50%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 231,43 triệu viên, tăng 8,70%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 422,8 nghìn viên, tăng 16,53%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 33.548 tấn, tăng 16,53%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 303.376 chiếc, tăng 6,99%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 141.096 chiếc, tăng 10,37%...
c) Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 12/2024 tăng 0,34% so với tháng trước và giảm 2,60% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,59% so với năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước giảm 1,91%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 2,11%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 2,73%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,94%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 4,28%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 12,76% so với cùng kỳ năm trước.
d) Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12 năm 2024 ước tính tăng 18,90% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm trong tháng tương đối thuận lợi, sản phẩm tiêu thụ luôn tăng theo lượng sản xuất, hầu hết các nhóm ngành đều có chỉ số tiêu thụ tăng.
e) Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đến thời điểm 31/12/2024 giảm 17,40% so với cùng thời điểm năm trước. Chỉ số tồn kho luôn có xu hướng giảm trong các tháng do các doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ ổn định, sản phẩm sản xuất ra hầu hết được xuất kho tiêu thụ.
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong quý IV và cả năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước (chỉ số chung cả năm 2024 ước tính tăng 10,08% so với năm trước), xu thế các tháng cuối năm ổn định và tăng cao hơn đầu năm, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Đối với ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chịu nhiều tác động bởi khó khăn của tình tình kinh tế trong và ngoài nước song các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn duy trì hoạt động ổn định, một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất, sản xuất các sản phẩm từ cao su, sản xuất bàn, ghế... do nguồn nguyên liệu đảm bảo và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định; một số doanh nghiệp chú trọng đầu tư mở rộng vùng nguyên liệu nên chủ động hơn trong sản xuất. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù ảnh hưởng bởi tình hình nắng hạn kéo dài trong các tháng đầu năm nhưng vẫn duy trì hoạt động ổn định, đảm bảo nguồn điện cho sản xuất, sinh hoạt trong tỉnh cũng như điều tiết chung của ngành điện. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có mức tăng trưởng tương đối cao, một phần do nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt tăng cao bởi thời tiết nắng nóng, một phần các đơn vị cung cấp nước đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống cung cấp nước đến các khu dân cư, tăng lượng khách hàng sử dụng nước sạch; bên cạnh đó các đơn vị thu gom, xử lý rác thải luôn mở rộng địa bàn thu gom, xử lý rác, tăng năng lực thu gom, xử lý rác.
8. Thương mại, dịch vụ
Tình hình lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 12, quý IV và năm 2024 cơ bản thông suốt và lượng cung hàng hóa trên thị trường khá dồi dào, chủng loại phong phú, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Tính chung cả năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 39.273,19 tỷ đồng, tăng 14,88% so với cùng kỳ năm trước. Riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 32.749,89 tỷ đồng, chiếm 83,39% trong tổng số, tăng 14,44% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 3.946,91 tỷ đồng, chiếm 10,05% trong tổng số, tăng 15,92% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 2.576,38 tỷ đồng, chiếm 6,56% trong tổng số tăng 19,07% so với cùng kỳ năm trước.
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Hoạt động thương mại dịch vụ tháng 12 diễn ra khá sôi động trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 12 năm 2024 đạt 3.457,98 tỷ đồng, tăng 2,07% so với tháng trước và tăng 18,39% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.907,71 tỷ đồng, chiếm 84,09% trong tổng số, tăng 2,08% so với tháng trước và tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 349,42 tỷ đồng, chiếm 10,1% trong tổng số, tăng 2,07% so với tháng trước và tăng 19,51% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 200,83 tỷ đồng, chiếm 5,81% trong tổng số, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 19,29% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, tình hình hoạt động thương mại dịch vụ tháng 12 trên địa bàn tỉnh Kon Tum diễn ra khá sôi động để chuẩn bị phục vụ cho các ngày lễ lớn cuối năm và chào mừng năm mới 2025, nhu cầu tiêu dùng lương thực, thực phẩm, các vật phẩm văn hóa, giáo dục và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tiếp tục duy trì xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tháng 12 năm 2024 tăng so với tháng trước là do tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn tháng trước về mặt thời tiết, hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình khuyến mãi, nhiều sản phẩm với giá hấp dẫn đã kích cầu tiêu dùng trong dân cư. Thời điểm này, nông dân đang bắt đầu bước vào vụ thu hoạch cà phê niên vụ 2023-2024. Hiện giá cà phê đang tăng cũng đã giúp nông dân có sản xuất cà phê tăng thu nhập, đã góp phần giúp tăng nhu cầu tiêu dùng nên sức mua tăng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quý IV năm 2024 ước tính đạt 10.275,26 tỷ đồng, tăng 3,37% so với quý trước và tăng 18,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 8.569,82 tỷ đồng, chiếm 83,4% trong tổng số, tăng 3,52% so với quý trước và tăng 17,81% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.030,67 tỷ đồng, chiếm 10,03% trong tổng số, tăng 1,95% so với quý trước và tăng 20,14% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 674,77 tỷ đồng, chiếm 6,57% trong tổng số, tăng 3,63% so với quý trước và tăng 18,82% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh cả năm 2024 ước tính đạt 39.273,19 tỷ đồng, tăng 14,88% so với năm trước.
+ Doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2024 ước đạt 32.749,89 tỷ đồng, chiếm 83,39% trong tổng số, tăng 14,44% so với năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 13,98%; Hàng may mặc, tăng 14,70%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 12,41%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 11,49%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 17,53%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 14,36%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 17,42%; Xăng, dầu các loại, tăng 12%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 19,93%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 21,62%; Hàng hoá khác, tăng 11%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 15,08%.
+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch năm 2024 ước đạt 3.946,91 tỷ đồng, chiếm 10,05% trong tổng số, tăng 15,92% so với cùng kỳ năm trước , trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 259,16 tỷ đồng, tăng 25,66%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.683,96 tỷ đồng, tăng 15,28%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 3,80 tỷ đồng, tăng 40,17% so với cùng kỳ năm trước.
+ Doanh thu dịch vụ khác năm 2024 ước đạt 2.576,38 tỷ đồng, chiếm 6,56% trong tổng số tăng 19,07% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao như: dịch vụ kinh doanh bất động sản, tăng 9,57%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 21,47%; dịch vụ giáo dục và đào tạo, tăng 18,51%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tăng 17,58%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, tăng 20,92%; dịch vụ khác, tăng 19,40%...
Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước năm 2024 tăng so với năm trước là do: Trong năm 2024 trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định và đời sống Nhân dân ổn định so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp và hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mãi tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Các hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch, nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3), các hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập thành phố Kon Tum, kỷ niệm 30 năm thành lập huyện Đăk Hà (24/3/1994 - 24/3/2024), dịp lễ 30/4, 01/5 và 02/9 kéo dài ngày, Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng huyện Kon Plông (12/10/1974 - 12/10/2024), tổ chức “Tuần lễ Múa Việt Nam - Vietnam Dance Week 2024”, ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10)… Trong tháng 12 năm 2024 trên địa bàn tỉnh Kon Tum tổ chức “Trải nghiệm văn hóa - Khám phá thiên nhiên”, Tuần Văn hóa - Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ V và Liên hoan cồng chiêng, xoang các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum lần thứ II năm 2024 tại thành phố Kon Tum và một số địa phương trong tỉnh.
b) Vận tải
Tình hình hoạt động giao thông, vận tải trên địa bàn tỉnh trong tháng 12 duy trì được sự tăng trưởng và ổn định hơn so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, nguyên nhân là do trong tháng 12 tại địa phương có tổ chức Tuần Văn hóa - Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ V và Liên hoan cồng chiêng, xoang các DTTS tỉnh Kon Tum lần thứ II nên nhu cầu đi lại của người dân tăng; Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với tháng trước, nguyên nhân một mặt là nhiều sản phẩm nông nghiệp đang vào mùa thu hoạch đại trà như: cao su, cà phê, lúa Vụ mùa, sắn…, mặt khác trong tháng là thời gian cao điểm hoạt động ngành xây dựng dịp cuối năm nên nên hoạt động vận tải hàng hóa phục vụ ngành nông nghiệp và xây dựng tăng mạnh. Ước tính cả năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 14,73%, luân chuyển hành khách tăng 15,34% so với năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 14,51%, luân chuyển hàng hóa tăng 12,98% so với năm trước.
Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 12 năm 2024
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 12 năm 2024 đạt 288,15 tỷ đồng, tăng 3,12% so với tháng trước và tăng 21,09% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 81,45 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,84%), so với cùng kỳ năm trước tăng 15,73%; Vận chuyển ước đạt 1.130 nghìn lượt khách, tăng 14,32%; Luân chuyển ước đạt 151.863 nghìn lượt khách.km, tăng 14,74%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 187,07 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 3,76%), so với cùng kỳ năm trước tăng 23,65%; Vận chuyển ước đạt 1.815 nghìn tấn, tăng 16,94%; Luân chuyển ước đạt 94.312 nghìn tấn.km, tăng 19,23%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 2,14 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,49%.
- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 17,49 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 21,76%.
Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính năm 2024
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính năm 2024 đạt 3.108,58 tỷ đồng, tăng 16,08% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 892,55 tỷ đồng, tăng 19,98%; Vận chuyển ước đạt 12.705 nghìn lượt khách, tăng 14,73%; Luân chuyển ước đạt 1.673.316 nghìn lượt khách.km, tăng 15,34%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.999,26 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 14,51%; Vận chuyển ước đạt 20.082 nghìn tấn, tăng 11,36%; Luân chuyển ước đạt 1.026.617 nghìn tấn.km, tăng 12,98%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 23,19 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,69%.
- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 193,58 tỷ đồng, tăng 14,79%.
9. Một số vấn đề xã hội
a) Dân số, lao động và việc làm
Sơ bộ dân số trung bình năm 2024 tỉnh Kon Tum là 601.817 người. Chia ra: khu vực thành thị 194.835 người chiếm 32,37%; khu vực nông thôn 406.982 người, chiếm 67,63%; Nam 303.385 người, chiếm 50,41%; Nữ 298.432 người, chiếm 49,59%.
Ước tính đến cuối quý IV năm 2024, tổng số người từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Kon Tum là 419.701 người, trong đó: nữ 207.708 người, chiếm 49,49%; khu vực thành thị là 139.718 người, chiếm 33,29% trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên.
Lực lượng lao động của tỉnh trong những năm qua tăng cả về quy mô và chất lượng. Ước tính đến cuối quý IV năm 2024, toàn tỉnh có 346.572 người thuộc lực lượng lao động, trong đó lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 107.155 người chiếm 30,92%, khu vực nông thôn là 239.417 người chiếm 69,08% lực lượng lao động; Tỷ lệ nam tham gia lực lượng lao động chiếm 51,82% (179.576 người), và tỷ lệ này ở nữ là 48,18% (166.995 người).
Số người thất nghiệp ước tính đến cuối quý IV năm 2024 là 2.080 người, tỷ lệ thất nghiệp là 0,6% trong tổng số lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh, giảm 0,19% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nữ có 1.120 người, chiếm tỷ lệ 53,86% trong tổng số người thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ là 0,67%, giảm 0,47% so với cùng kỳ năm trước và cao hơn tỷ lệ thất nghiệp của nam 0,14% (0,67% so với 0,53%). Khu vực thành thị có số người thất nghiệp là 1.160 người, tỷ lệ thất nghiệp là 1,08%, khu vực nông thôn có tỷ lệ thất nghiệp là 0,38% (921 người).
Tính từ đầu năm đến nay giải quyết việc làm cho 7.568 lao động, trong đó cung ứng, giới thiệu 730 lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; giải quyết việc làm mới cho 3.913 người thông qua nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm; có 269 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giải quyết việc làm thông qua các chương trình khác là 2.576 người (số liệu từ Sở Lao động-Thương binh và Xã hội).
Trong tổng số lực lượng lao động trên toàn tỉnh, số lao động có việc làm là 344.491 người, chiếm 99,4% trong lực lượng lao động trên toàn tỉnh. Trong đó, lao động có việc làm ở khu vực nông thôn chiếm phần lớn, với 238.496 người chiếm 69,23% (do dân số ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 2/3 dân số trên toàn tỉnh).
Lao động có việc làm/Lực lượng lao động giữa hai khu vực thành thị và nông thôn thì khu vực nông thôn có tỷ lệ lao động có việc làm cao hơn khu vực thành thị 0,7 điểm phần trăm (99,62% và 98,92%). Tỷ lệ này ở lao động có việc làm giữa nam và nữ chênh lệch không đáng kể là 0,14 điểm phần trăm (99,47% và 99,33%).
Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Kon Tum qua các năm đều chuyển dịch đúng theo định hướng là giảm dần tỷ trọng của ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng dần tỷ trọng Công nghiệp - Xây dựng và thương mai, dịch vụ. Tuy nhiên ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn là ngành chiếm tỷ trọng lớn có giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm cao nhất trong nền kinh tế, lao động cũng chiếm tỷ trọng cao nhất của 3 khu vực. Chính vì vậy, cơ cấu lao động không đồng đều ở ba khu vực và có sự chênh lệch lớn. Trong quý IV/2024 số lao động có việc làm ở các khu vực như sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 242.105 người, giảm 0,29% (giảm 698 người) so với cùng kỳ năm trước; Khu vực công nghiệp, xây dựng: 26.062 người, tăng 29,16% (5.884 người) so với cùng kỳ năm trước; Khu vực thương mại, dịch vụ: 76.324 người, tăng 12,55% so với cùng kỳ năm trước.
Số người thiếu việc làm ước tính đến cuối quý IV năm 2024 là 1.653 người, tỷ lệ thiếu việc làm là 0,48% trong tổng số lực lượng lao động, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước (1.653 người so với 1.695 người). Song đối với vùng nông thôn chiếm phần lớn 1.103 người, chiếm 66,72% trong tổng số, một phần do ở khu vực nông thôn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu, công việc mang tính thời vụ, cho nên tình trạng thiếu việc làm luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nông thôn trong tổng số lực lượng lao động nông thôn là 0,48%. Tương tự, lao động nam thiếu việc làm tương đối cao (1.044 người) chiếm tỷ lệ 63,14% trong tổng số người thiếu việc làm; tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nam là 0,3% so với lực lượng lao động là nam giới; và tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nữ là 0,4% so với lực lượng lao động là nữ giới.
b) Tình hình đời sống dân cư
Quý IV và năm 2024, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả như: Tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,02%, đứng thứ 24 cả nước và cao nhất trong khu vực Tây Nguyên; các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển, đảm bảo mục tiêu đề ra; chăn nuôi phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, khách du lịch tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh được đảm bảo. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Quý IV là thời điểm chính vụ thu hoạch của các loại cây công nghiệp chủ lực trên địa bàn và các loại cây trồng vụ mùa. Thời tiết ít mưa nên thuận lợi cho bà con thu hoạch, chế biến và bảo quản. Giá các mặt hàng nông sản tăng cao, đặc biệt giá cà phê tăng gần gấp 3 lần so với cùng kỳ những năm trước nên bà con rất phấn khởi khi cà phê vừa được mùa, vừa được giá.
Bên cạnh những kết quả đạt được, còn có một số khó khăn, hạn chế và thách thức như: Tình hình bệnh Dịch tả lợn Châu Phi còn xảy ra trên địa bàn một số xã; mưa lũ, động đất gây ảnh hưởng đến một số cơ sở hạ tầng như: Trường học, trụ sở xã, công trình thủy lợi; tai nạn giao thông chưa được kiềm chế.
c) Tình hình nổi bật về xã hội
Trong quý IV và năm 2024, lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh được đảm bảo. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời, cụ thể:
Về y tế: Ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai tích cực, chủ động, các dịch bệnh trên người được kiểm soát tốt; công tác đảm bảo an toàn thực phẩm được triển khai thực hiện nghiêm túc.
Về giáo dục: Từ đầu năm đến nay đã xóa được 106 phòng học tạm, mượn, nhờ; Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 đạt kết quả cao với tỷ lệ tốt nghiệp đạt 99,3%, xếp vị thứ 2 trong khu vực Tây Nguyên. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tăng vượt bậc; thực hiện tốt công tác huy động học sinh ra lớp đầu năm học 2024-2025[4]. Công tác bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên cũng được tăng cường nhằm đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông 2018. Công tác phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS và THPT được đẩy mạnh, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS, THPT chuyển sang học nghề đạt 35,03%.
Về văn hóa: Công tác khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống của các dân tộc thiểu số, các di tích lịch sử cách mạng gắn với phát triển du lịch tiếp tục được triển khai; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được quan tâm, duy trì.
Từ ngày 11-14/12/2024 UBND tỉnh Kon Tum đã tổ chức Tuần Văn hóa – Du lịch lần thứ V và Liên hoan cồng chiêng, xoang các DTTS tỉnh lần thứ II, năm 2024 Với chủ đề “Trải nghiệm văn hóa - Khám phá thiên nhiên”, Tuần Văn hóa – Du lịch năm 2024 là sự kiện văn hóa - du lịch cấp tỉnh gắn với chuỗi hoạt động đặc sắc, phong phú, hấp dẫn, được chuẩn bị kỹ lưỡng để mang tới người dân và du khách nhiều trải nghiệm thú vị. Tham gia sự kiện có hơn 1.000 nghệ nhân, nghệ sỹ đến từ các huyện, thành phố, các lưu học sinh của nước bạn Lào, Campuchia và các nghệ sỹ đến từ tỉnh An Giang. Tại Ngày hội đã diễn ra 15 hoạt động lớn trên địa bàn thành phố Kon Tum và các huyện như Kon Plông, Tu Mơ Rông, Đăk Tô, Ngọc Hồi, Sa Thầy với nhiều nội dung đặc sắc, hấp dẫn.
Về thể dục thể thao: Phong trào hoạt động thể dục thể thao từ tỉnh xuống cơ sở tiếp tục được đẩy mạnh[5], phong trào thể dục thể thao trong quần chúng Nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, không phát sinh các vấn đề nổi cộm về an ninh trật tự, môi trường; triển khai có hiệu quả các kế hoạch cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, nhất là tội phạm về trật tự xã hội, tội phạm ma túy.
d) Tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội
Trong quý IV và năm 2024, công tác lao động, việc làm và giáo dục nghề nghiệp được triển khai kịp thời. Các chế độ, chính sách, dự án ưu đãi đối với người có công cách mạng; hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội; công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em được thực hiện đảm bảo theo quy định.
Công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,51% so với năm 2023, tương ứng giảm 3.650 hộ; toàn tỉnh hiện còn 6.557 hộ nghèo, chiếm 4,31%. Đã cấp 40.498 thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng hộ nghèo, cận nghèo (trong đó đối tượng hộ nghèo là 33.533 thẻ; hộ cận nghèo là 6.945 thẻ); đã hỗ trợ kinh phí tiền điện cho 16.265 hộ nghèo, hộ chính sách xã hội (10.220 hộ nghèo; 6.045 hộ CSXH).
Các chính sách an sinh xã hội trong lĩnh vực trẻ em được quan tâm thực hiện. Công tác bình đẳng giới, phòng chống tệ nạn xã hội được triển khai tích cực. Công tác giải quyết đất ở, đất sản xuất cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được chú trọng thực hiện, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số có đất ở ước khoảng 99,33%.
Quý IV đã hỗ trợ đầy đủ, kịp thời cho các đối tượng người có công và thân nhân của người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP, hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không thuộc Nghị định 20/2021/NĐ-CP. Các khoản hỗ trợ cho các nhóm đối tượng tăng do từ ngày 01/7/2024 các khoản trợ cấp được điều chỉnh tăng theo các Nghị định của Chính phủ.
Số thẻ bảo hiểm y tế cấp miễn phí cho các đối tượng đến cuối quý IV là 268.595 giảm 2.367 đối tượng (-0,87%) so với quý trước, so với năm 2023 giảm 7.922 đối tượng (- 2,86%) số đối tượng giảm tập trung chủ yếu là đối tượng nghèo và Người sống tại vùng đặc biệt khó khăn.
e) Tình hình bất thường về thiên tai, hỏa hoạn
Tình hình thiệt hại thiên tai kỳ tháng 12 (từ ngày 26/11 tới ngày 25/12) năm 2024 trên địa bàn tỉnh Kon Tum xảy ra 1 vụ thiên tai, do mưa lốc xảy ra tại huyện Kon Rẫy gây ra thiệt hại về nhà ở. Ước tính thiệt hại khoảng 50 triệu đồng, giảm 476 triệu đồng so với tháng trước. Tính từ đầu năm tới thời điểm hiện tại thiệt hại do thiên tai gây ra ước khoảng 119.164 triệu đồng (cập nhật lại thiệt hại từ đầu năm tới thời điểm hiện tại bao gồm thiệt hại về: Nhà ở, giáo dục, văn hóa, y tế, các công trình giao thông...), giảm 4.071 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2023.
Tình hình thiệt hại thiên tai năm 2024 (từ 26/12/2023 đến 25/12/2024) trên địa bàn tỉnh Kon Tum xảy ra 17 vụ gồm: 2 vụ do mưa lớn và lũ; 8 vụ do mưa giông, sét; 5 vụ do hạn hán, nắng nóng; và 2 vụ do động đất gây thiệt hại. Ước tính thiệt hại thiên tai năm 2024 gồm các thiệt hại về: Nhà ở, Giáo dục, Y tế, Văn hóa, Nông nghiệp, Chăn nuôi, Thủy lợi, Công trình giao thông, Thủy sản, Hạn hán và thiệt hại khác (thiệt hại khác là 3 trụ sở làm việc) là 119.164 triệu đồng giảm 4.071 triệu đồng so với năm 2023.
f) Tình hình vi phạm môi trường
Trong tháng, phát hiện 01 hộ kinh doanh có hành vi vi phạm các quy định về thải bụi, khí thải có chứa các thông số môi trường nguy hại vào môi trường trên địa bàn xã Ngọc Wang, huyện Đăk Hà. Hiện nay cơ quan chức năng đã lập biên bản về hành vi vi phạm và tiến hành các bước xử lý theo quy định.
g) Tình hình trật tự an toàn xã hội
- Tội phạm về trật tự xã hội: Tiếp tục được kiềm chế, kéo giảm, trong năm 2024, đã phát hiện 298 vụ (đánh giá chỉ tiêu kéo giảm tội phạm: Giảm 101 vụ bằng 26,5% so với năm 2023). Diễn biến về cơ cấu tội phạm có sự đan xen lẫn nhau, một số loại tội phạm giảm sâu (Giết người giảm 40%, cố ý gây thương tích giảm 43,75%, nhóm tội phạm liên quan tới xâm hại người dưới 16 tuổi giảm 62,5%, Trộm cắp tài sản giảm 15,1%), trong khi một số loại tội phạm tăng so với cùng kỳ (Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tăng 10%...).
- Tội phạm về lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông: Nổi lên là hành vi sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, trong kỳ đã phát hiện, khởi tố 01 vụ (ước tính thiệt hại khoảng 570 triệu đồng).
- Tội phạm về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu, môi trường: Trong kỳ đã phát hiện 31 vụ phạm tội (tăng 12 vụ bằng 63,l% so với năm 2023).
- Tội phạm về ma túy: Trong kỳ, phát hiện 140 vụ (tăng 35 vụ bằng 33,3% so với năm 2023), tỷ lệ số vụ khởi tố tội phạm tàng trữ trái phép chất ma túy trong cơ cấu tội phạm đạt 59,4% (giảm 4,4% so với tỷ lệ trong cơ cấu của năm 2023).
h) Những vấn đề nổi lên trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước về ANTT
- Tình hình TNGT: Toàn tỉnh xảy ra 143 vụ tai nạn giao thông, làm 104 người chết, 107 người bị thương (so với năm 2023, tăng 12 vụ, giảm 04 người chết, giảm 04 người bị thương).
Tình hình cháy, nổ và cứu nạn, cứu hộ: Năm 2024, xảy ra 34 vụ cháy, làm 03 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 4.381,7 triệu đồng (so với năm 2023: Tăng 25 vụ bằng 277,7%, giảm 02 người chết, giảm 0,549 tỷ đồng thiệt hại tài sản); xảy ra 12 vụ tai nạn, sự cố, làm 13 người chết, cứu được 01 người (so với năm 2023, giảm 01 vụ bằng 7,7%, không tăng, không giảm về số người chết).
[1] Nghị quyết số 23-NQ/TU ngày 05 tháng 12 năm 2023; Nghị quyết số 61/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2023.
[2] Công văn số 2551/TCTK-TKQG ngày 02 tháng 12 năm 2024 của Tổng cục Thống kê về việc thông báo số liệu GRDP ước tính quý IV, cả năm 2024.
[3] Nguồn: Báo cáo NHNN chi nhánh tỉnh Kon Tum
[4] Tổng số trẻ em, học sinh huy động ra lớp là 170.006 em.
[5] Tổ chức các giải: Giải Bóng đá Thiếu niên - Nhi đồng tỉnh Kon Tum năm 2024; Giải vô địch Bơi các nhóm tuổi tỉnh Kon Tum năm 2024; Giải vô địch Bóng bàn các nhóm tuổi tỉnh Kon Tum mở rộng năm 2024; Giải vô địch Cầu lông các nhóm tuổi tỉnh Kon Tum mở rộng năm 2024; Hội thi kiến thức, kỹ năng phòng, chống đuối nước dành cho trẻ em tỉnh Kon Tum năm 2024.... Đăng cai tổ chức Giải Vô địch Điền kinh trẻ quốc gia năm 2024 tại Kon Tum.
Xem và tải về:
Cục Thống kê