• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Chủ Nhật, 28/04/2024 03:49
Thông tin kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum tháng 3 và quý I năm 2024
Cập nhật: Thứ Sáu, 29/03/2024 07:58

 

Tình hình kinh tế - xã hội cả nước nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng trong quý I năm 2024 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp và bất ổn. Đến thời điểm tháng 3/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024. Cụ thể, Liên hợp quốc (UN) nhận định trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài, tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo sẽ chậm lại từ mức 2,7% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024; Ngân hàng Thế giới (WB) cùng nhận định tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%, giảm so với mức 2,6% trong năm 2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)  nhận định GDP toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 2,9%, thấp hơn mức tăng trưởng 3,1% của năm 2023; Liên minh châu Âu (EU)  dự báo tăng trưởng toàn cầu (không bao gồm EU) năm 2024 đạt 3,3%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023. Riêng Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2024 bằng với năm 2023, ở mức 3,1%.Theo báo cáo “Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3” của Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN+3 (AMRO), khu vực ASEAN+3 (ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) được dự báo sẽ tăng trưởng 4,5% trong năm 2024 do thương mại quốc tế cải thiện sẽ thúc đẩy nhu cầu trong nước. Theo đó, AMRO dự báo tăng trưởng năm 2024 của một số quốc gia Đông Nam Á như sau: Phi-li-pin 6,3%, In-đô-nê-xi-a 5,2%, Ma-lai-xi-a 5,0%, Thái Lan 3,3% và Xin-ga-po 2,6%.

Đối với Việt Nam, trái ngược với xu hướng tăng trưởng thấp của năm trước, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức dự báo 4,7% của năm 2023; UN và AMRO đều nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 6,0%, cao hơn mức dự báo 4,7% và 5,1% của năm 2023. Trước những khó khăn, thách thức của tình hình kinh tế -xã hội trên thế giới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sát sao chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2024.

Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, năm 2024 được dự báo sẽ tiếp tục còn nhiều khó khăn và thách thức. Để phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2024 đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh xác định tại các Nghị quyết[1]. Nhằm khẩn trương, kiên quyết khắc phục những mặt còn hạn chế, bất cập; quyết tâm nỗ lực hoàn thành đạt và vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ngay từ những ngày đầu năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 12 tháng 12 năm 2023 về việc triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước; các Chương trình mục tiêu quốc gia và đầu tư công năm 2024; Quyết định số 24/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2024 Ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024; Ủy ban nhân dân tỉnh yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương cần chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện thật sự quyết liệt ngay từ những ngày đầu của năm 2024. Đồng thời, có giải pháp, biện pháp hiệu quả để phát huy cao nhất tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì nhiệm vụ chung. Cấp ủy các cấp, chính quyền các cấp phải lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ, giải quyết nhanh những điểm nghẽn, nút thắt trong quá trình thực thi nhiệm vụ, nhất là trong công tác giải phòng mặt bằng, giải ngân vốn đầu tư công, thi công các công trình trọng điểm, triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia… Với tinh thần quyết tâm, quyết liệt, trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, sự tin tưởng, đồng lòng, quyết tâm của cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tháng 3 và quý I năm 2024 ước đạt như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

- Trong quý I năm 2024, ngành nông nghiệp và các địa phương của tỉnh đã chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; tiếp tục tập trung thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân tập trung, chăm sóc các loại cây vụ đông xuân; công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được đẩy mạnh, các hoạt động kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ được tăng cường nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh và lây lan. Hoạt động lâm nghiệp duy trì ổn định, công tác quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng được tăng cường.

 - Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện quý I năm 2024 đạt 734 tỷ đồng đạt 22,6% dự toán Trung ương và đạt 15,9% dự toán địa phương giao, giảm 11,57% so cùng kỳ năm trước.

- Tổng chi ngân sách nhà nước ước thực  hiện quý I năm 2024 là 3.207 tỷ đồng, đạt 26,9% so với nhiệm vụ chi và tăng 11,68% so cùng kỳ năm trước.

- Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý I năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 5.712,44 tỷ đồng, tăng 11,81% so với cùng kỳ năm trước.

- Chỉ số sản xuất công nghiệp Quý I năm 2024 ước tính tăng 11,06% so cùng kỳ năm trước.

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quý I năm 2024 ước tính đạt 9.326,47 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước.

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý I tăng 1,53% so với cùng kỳ năm trước.

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn

Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực  hiện quý I năm 2024 đạt 734 tỷ đồng đạt 22,6% dự toán Trung ương và đạt 15,9% dự toán địa phương giao, giảm 11,57% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa 664 tỷ đồng đạt 16% so dự toán địa phương giao (thu nội địa trừ tiền sử dụng đất, XSKT và thu cổ tức lợi nhuận sau thuế, số thu còn lại 601 tỷ đồng, đạt 24,3% dự toán), thu xuất nhập khẩu 51 tỷ đồng đạt 17,3% so dự toán. Số ước thực hiện thu NSNN quý I năm 2024 chưa đạt theo tiến độ dự toán được giao. Nguyên nhân không đạt dự toán từ một số lĩnh vực thu như sau: số thu tiền sử dụng đất (bao gồm tăng thu từ các dự án khai thác quỹ đất so với dự toán Trung ương giao) chưa đạt dự toán giao, nguyên nhân do các tháng đầu năm 2024, các dự án đang triển khai các bước công việc, hồ sơ, thủ tục theo quy trình trước khi tổ chức bán đấu giá theo quy định, do đó dự kiến sẽ phát sinh vào các tháng tiếp theo. Bên cạnh đó, thời tiết trên địa bàn tỉnh đang trong mùa khô, lượng mưa giảm nên sản lượng điện phát sinh không lớn.

Tổng chi ngân sách nhà nước ước thực hiện quý I năm 2024 đạt 3.207 tỷ đồng, đạt 26,9% so với nhiệm vụ chi và tăng 11,68% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 1.850 tỷ đồng đạt 48% so với nhiệm vụ chi, tăng 12,1% so cùng kỳ năm trước; Chi thường xuyên 1.350 tỷ đồng đạt 20,8% so với nhiệm vụ chi, tăng 11,2% so cùng kỳ năm trước.

2.2. Kết quả hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng[2]

  (1) Tình hình thực hiện lãi suất

Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi

suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên đị bàn áp dụng mức lãi suất như sau:

* Lãi suất huy động bằng VNĐ: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng : ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 3,0-4,5%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,5-5,3%/năm.

* Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 9,0-11,0%/năm.

(2) Hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng

- Hoạt động huy động vốn:

Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn. Tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đến ngày 31/3/2024 đạt 23.000 tỷ đồng, giảm 0,1% (-24 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.670 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,3% tổng nguồn vốn huy động, tăng 2,1% (+34 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

- Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn. Tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đến ngày 31/3/2024 đạt 46.200 tỷ đồng, giảm 0,7% (-312 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:

 - Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 28.450 tỷ đồng, chiếm 61,6% tổng dư nợ, giảm 0,7% (-194 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.750 tỷ đồng, chiếm 38,4% tổng dư nợ, giảm 0,7% (-118 tỷ đồng) so với đầu năm.

- Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.000 tỷ đồng, chiếm 32,5% tổng dư nợ, tăng 0,5% (+80 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 53 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ, không thay đổi so với đầu năm;  Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 31.142 tỷ đồng, chiếm 67,4% tổng dư nợ, giảm 1,2% (-393 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 4,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.

 - Dư nợ phân theo loại tiền: Dư nợ bằng VNĐ ước đạt 46.085 tỷ đồng, chiếm 99,8% tổng dư nợ; Dư nợ bằng ngoại tệ ước đạt 115 tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng dư nợ.

- Tình hình triển khai một số chương trình tín dụng:

- Cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên: Đến 31/3/2024, dư nợ tín dụng đối với 05 lĩnh vực ưu tiên ước đạt 40.530 tỷ đồng, chiếm 87,7% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn. Trong đó:

+ Dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn ước đạt 30.100 tỷ đồng, chiếm 65,2%/tổng dư nợ, giảm 0,2% (-57 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

+ Dư nợ cho vay xuất khẩu ước đạt 240 tỷ đồng, chiếm 0,5%/tổng dư nợ, giảm 3,5% (-9 tỷ đồng) so với cuối năm 2023.

+ Dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa ước đạt 10.100 tỷ đồng (chiếm 21,9% tổng dư nợ và chiếm 67,3% dư nợ cho vay doanh nghiệp), giảm 0,4% (-45 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

+ Cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ước đạt 90 tỷ đồng (chiếm 0,2%/tổng dư nợ), tăng 5,4% (+5 tỷ đồng) so với cuối năm 2023.

- Tín dụng theo các chương trình, chính sách của Nhà nước: Ước đến 31/3/2024, tổng dư nợ cho vay các chương trình chính sách tại NHCSXH chi nhánh tỉnh Kon Tum đạt 4.490 tỷ đồng (chiếm 9,7%/tổng dư nợ toàn địa bàn), tăng 0,7% (+30,0 tỷ đồng) so với 31/12/2023. Nợ xấu ước khoảng 7,0 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 0,2% tổng dư nợ. Trong kỳ báo cáo, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) chi nhánh tỉnh Kon Tum tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, kết quả đến ngày 29/02/2024, dư nợ đạt 677 tỷ đồng.

3. Giá, lạm phát

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

So với tháng trước chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2024 giảm 0,23% (khu vực thành thị giảm 0,24%; khu vực nông thôn tăng 0,23%). Giá cả thị trường trong tháng sau Tết Nguyên đán ở địa phương ổn định trở lại, không có sự biến động lớn về giá, không xảy ra hiện tượng ghim hàng tăng giá. So với tháng 12/2023 CPI tháng 3 tăng 1,09% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,14%. Bình quân quý I năm 2024, CPI tăng 1,53%.

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 04 nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,06%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,35%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%. Có 05 nhóm giảm là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,61%; nhóm giao thông giảm 0,28%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,37%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,18%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,5%. Có 02 nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.

Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

(1) Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,61%)

- Lương thực : Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,52%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,82% (gạo tẻ thường tăng 0,82%, gạo tẻ ngon tăng 0,9%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng, riêng gạo nếp giảm 0,43% là do nhu cầu tiêu dùng giảm sau Tết Nguyên đán. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 0,72%, trong đó khoai tăng 1,23%, sắn tăng 0,56% là do nhu cầu tiêu dùng tăng.

- Thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm giảm 1,74%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống giảm 1,01%, trong đó thịt lợn giảm 1,14%, thịt bò giảm 0,91% là do giá giảm ổn định trở lại sau Tết Nguyên đán. Nhóm thịt gia cầm giảm 2,58%, trong đó giá thịt gà giảm 2,74%, thịt gia cầm khác giảm 1,79%. Nhóm thủy sản tươi sống giảm 1,28% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh giảm 1,39%, nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,67%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng giảm trong khi đó lượng cung tăng. Nhóm dầu mỡ và chất béo khác giảm 0,2% là do mỡ động vật giảm 1,03% do giảm theo giá thịt lợn.

Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 0,11%, trong đó đỗ quả tươi tăng 4,43%, rau dạng quả, củ tăng 3,64%, nguyên nhân chính là các sản phẩm rau trên trái vụ. Ở chiều ngược lại một số mặt hàng rau giảm như: bắp cải giảm 2,16%, cà chua giảm 4,8%, su hào giảm 2,53%, nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm trên đang mùa thu hoạch. Nhóm quả tươi, chế biến giảm 0,9%, trong đó xoài giảm 1,81%, chuối giảm 3,57%, táo giảm 2,09%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng sau Tết giảm nên làm cho giá giảm theo quy luật giá cả thị trường Tết.

Nhóm đường, mật giảm 0,83%, trong đó đường giảm 1,06%. Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,24% là do sữa tươi tăng 0,14%, sữa bột trẻ em tăng 0,44%. Nhóm bánh, mức, kẹo giảm 2,04%, chủ yếu do bánh quy, bánh nướng giảm 2,25%, kẹo các loại giảm 1,75%, mứt các loại giảm 2,3%.

- Ăn uống ngoài gia đình: Nhóm ăn uống ngoài gia đình giảm 0,91%, trong đó ăn ngoài gia đình giảm 1,13% là do giá ổn định trở lại sau khi các cơ sở kinh doanh tăng phụ thu một số mặt hàng ăn và nước giải khát trong dịp Tết.

(2) Đồ uống và thuốc lá (+0,23%)

 Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%, là do nhóm rượu, bia tăng 0,48%, trong đó bia các loại tăng 0,74%, nguyên nhân là do sau nhiều tháng giảm do nhu cầu tiêu dùng giảm nay giá ổn định và tăng nhẹ trở lại.

(3) May mặc, mũ nón và giày dép (+0,06%)

Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,06%, trong đó quần áo may sẵn tăng 0,07%, trong đó quần áo cho em trai tăng 0,47%; nhóm may mặc khác tăng 0,1%, trong đó khăn mặt, khăn quàng các loại tăng 0,98%; nhóm giầy dép tăng 0,12%, trong đó giầy dép cho nữ tăng 0,58%; nhóm dịch vụ may mặc tăng 0,29%.

(4) Nhà ở và vật liệu xây dựng (+0,35%)

 Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,35%,  nguyên nhân chính là do giá điện sinh hoạt tăng 1,15% (do nhu cầu tiêu dùng tăng nên giá bình quân tăng); nhóm nhà ở thuê tăng 0,17%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 0,3%; nhóm gas và các loại chất đốt khác tăng 0,31%, trong đó giá gas tăng 0,45% (tăng 2000 đồng/kg từ ngày 01/3/2024), riêng giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước giảm 0,1%.

(5) Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,08%)

Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%, tăng chủ yếu là do đồ dùng bằng kim loại tăng 0,88%; đồ điện tăng 0,23%; máy giặt tăng 1,08%; máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,81%. Ở chiều ngược lại, hàng thủy tinh, sành, sứ giảm 0,25%; đồ dùng nấu ăn giảm 0,1%.

(6) Giao thông (-0,28%)

Chỉ số nhóm giao thông giảm 0,28%, nguyên nhân chủ yếu là do giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 11,12%, trong đó vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 57,42%, vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 6,29%, vận tải hành khách bằng đường bộ giảm 10,91%, nguyên nhân chính là do giá vé vận chuyển hành khách sau Tết Nguyên đán đã ổn định trở lại; nhóm nhiên liệu tăng 0,73%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá dầu diezel giảm 1,13%, giá xăng tăng 0,8%.

(7) Bưu chính viễn thông (-0,37%)

Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,37%, là do thiết bị điện thoại giảm 1,07%, trong đó máy điện thoại thông thường giảm 1,07%, máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 2,14%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động.

(8) Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,18%)

 Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,18% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,92%, trong đó ti vi màu giảm 0,96%. Riêng nhóm hoa, cây cảnh và vật cảnh tăng 0,9%, trong đó cây, hoa cảnh tăng 2,2% là do trong tháng có ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 nên nhu cầu tiêu dùng hoa tăng làm cho giá tăng theo.

(9) Hàng hóa và dịch vụ khác (-0,5%)

Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,5% là do nhóm dịch vụ phục vụ cá nhân giảm 2,88%, trong đó  cắt tóc gội đầu giảm 2,93% là do giá dịch vụ phục vụ thời điểm Tết tăng nay ổn định trở lại theo quy luật giá cả Tết. Ở chiều ngược lại,  nhóm đồ dùng cá nhân tăng 1,08%, trong đó hàng túi xách, va ly, ví tăng 0,81%; đồ trang sức tăng 3,86% là tăng theo giá vàng.

So với tháng 3/2023, CPI tháng 2/2024 tăng 2,14%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,05%, tăng chủ yếu là do nhóm thực phẩm tăng 11,53%, riêng giá gạo tăng 15,8% là do giá gạo xuất khẩu tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,72%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,38%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,3%, tăng chủ yếu là do tiền thuê nhà tăng 7,4%, điện sinh hoạt tăng 6,43%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%; nhóm giao thông tăng 2,04% là do nhóm dịch vụ giao thông công cộng tăng 14,99%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,88%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng; nhóm giáo dục tăng 1,12%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,12%.

Các nhóm giảm nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,38%, giảm chủ yếu là do mặt hàng điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 3,29%.

So với tháng 12/2023, CPI tháng 3/2024 tăng 1,09%, trong đó có 08 nhóm hàng tăng giá, 02 nhóm giảm giá và 01 nhóm không biến động giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,12%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,02%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,62%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,65%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,36%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,41%; nhóm giao thông tăng 4,25%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,76%.

Các nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 1,07%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,2%.

Nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục.

- Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I  năm 2024 tăng 1,53% so với quý IV năm 2023, tăng 0,98% với với tháng 12 năm 2023 và tăng 1,53% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh

Chỉ số giá vàng (+4,32%): Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 3/2024 tăng 4,32% so với tháng trước; tăng 10,49% so với tháng 12/2023; tăng 21,51% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2024 tăng 16,79% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ (+0,82%): Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 3/2024 giao dịch bình quân quanh mức 24.884 VND/USD, tăng 0,82% so với tháng trước; tăng 1,64% so với tháng 12/2023; tăng 4,16% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2024 tăng 3,88%.

3.3. Chỉ số giá sản xuất

a) Giá sản xuất nông lâm thuỷ sản

Giá bán nông, lâm nghiệp và thủy sản trong Quý I năm 2024 trên địa bàn tỉnh Kon Tum thường xuyên chịu sự tác động lớn của yếu tố thị trường; mùa vụ sản xuất,... đã tác động hầu hết các loại giá sản xuất đều có xu hướng biến động tăng so với quý trước. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2024 tăng 1,88% so với quý trước và tăng 4,99% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá các nhóm hàng nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh Kon Tum có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024, tình hình biến động giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh có phần ảnh hưởng bởi sự biến động giá chung của một số mặt hàng trên cả nước và các tỉnh lân cận.

Quý I năm 2024, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,99% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 5,24%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,48%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 3,86%.

Tình hình diễn biến giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của một số nhóm hàng chính trong Quý I năm 2024, cụ thể:

(1) Nhóm sản phẩm từ cây hàng năm: Chỉ số sản phẩm cây hàng năm quý I/2024 tăng 1,94% so với quý trước và tăng 5,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm thóc khô tăng 2,82% so với quý trước; Nhóm ngô và cây lương thực có hạt khác tăng 0,85% so với quý trước; nhóm sản phẩm cây lấy củ có chất bột tăng 1,8% so với quý trước chủ yếu do nguồn cung sắn củ tươi giảm nên cơ sở thu gom tăng giá; Nhóm mía cây tươi tăng 1,08% so với quý trước do sự biến động thị trường mía chung của cả nước; Nhóm hạt chứa dầu tăng 1,31%; Nhóm rau, đậu các loại và hoa tăng 1,27%; Nhóm sản phẩm cây hàng năm khác tăng 0,84% so với quý trước, nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ tăng trong dịp tết Nguyên đán nên giá tăng.

(2) Nhóm sản phẩm từ cây lâu năm: Chỉ số giá sản phẩm từ cây lâu năm tăng 2,09% so với quý trước và tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm sản phẩm cây ăn quả tăng 1,62% so với quý trước, chủ yếu do chủ yếu do sản lượng thu hoạch tăng, nguồn cung ra thị trường lớn và nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng vào Tết Nguyên đán và các lễ hội trong dịp đầu năm…; Nhóm hồ tiêu tăng 0,63% so với quý trước; Nhóm mủ cao su khô giảm 0,33% so với quý trước; Nhóm cà phê nhân tăng 4,29% so với quý trước, giá các sản phẩm hồ tiêu, cao su, cà phê biến động phần lớn do ảnh hưởng giá chung của cả nước; Nhóm cây chè tương đối ổn định (tăng 0,04%) so với quý trước.

(3) Nhóm sản phẩm từ chăn nuôi: Chỉ số giá sản phẩm từ chăn nuôi tăng 1,87% so với quý trước và tăng 2,23% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm sản phẩm chăn nuôi trâu, bò tăng 2,02% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi dê, cừu, hươu, nai tăng 4,71% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi lợn tăng 1,76% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi gia cầm tăng 2,04% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi khác tăng 0,5% so với quý trước. Nguyên nhân chủ yếu là nhóm sản phẩm từ chăn nuôi trong Quý I năm 2024 tăng nhẹ do sự biến động giá chung của một số mặt hàng trên cả nước và các tỉnh lân cận.

(4) Nhóm dịch vụ nông nghiệp: Chỉ số giá sản phẩm từ dịch vụ nông nghiệp tăng 0,43% so với quý trước và tăng 0,81% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ trồng trọt tăng 0,42%; dịch vụ chăn nuôi tăng 1,11%, nhóm dịch vụ chăn nuôi tăng do nhu cầu sử dụng các dịch vụ tăng, các hộ kinh doanh tăng giá dịch vụ.

(5) Nhóm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan: Các sản phẩm lâm nghiệp tương đối ổn định tăng 1,29% so với quý trước và tăng 1,48% so với cùng kỳ năm trước do phần lớn các sản phẩm giữ ổn định giá so với quý trước.

(6) Nhóm thủy sản: Chỉ số giá sản phẩm thuỷ sản khai thác, nuôi trồng sản tăng 0,86% với quý trước và tăng 3,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản phẩm thuỷ sản khai thác tăng 0,82% với quý trước và tăng 1,07% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu do nguồn thủy sản tự nhiên giảm, một mặt tâm lý người tiêu dùng luôn ưa chuộng các mặt hàng khai thác tự nhiên nên giá tăng.

b) Giá sản xuất công nghiệp

Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý I năm 2024 tăng 4,05% so với quý trước và tăng 5,91% so với cùng kỳ năm trước và tăng 16,38% so với kỳ gốc năm 2020, tình hình tăng giảm cụ thể ở các nhóm ngành như sau:

          (1) Nhóm ngành khai khoáng: Chỉ số giá sản phẩm thuộc nhóm ngành khai khoáng tăng 2,05% so với quý trước và tăng 7,49% so cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu do giá đá, cát, sỏi tăng.

          (2) Nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Chỉ số nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng 0,22% so với quý trước và tăng 7,44% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tác động nhiều nhất làm cho chỉ số nhóm ngành này tăng cao là các sản phẩm thuộc ngành Công nghiệp sản xuất giường, tủ, bàn ghế, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của giá tăng vào tháng 01 và tháng 02/2024 vì đây là thời điểm cuối của năm (Âm lịch), người dân bắt đầu tập trung mua sắm nên giá nguyên liệu đầu vào trong quý I năm 2024 có tăng hơn so với quý trước (tăng 2,09%); sản phẩm chế biến gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ , tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 1,13%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,13% nhìn chung các nhóm hàng này có tăng nhưng không cao. Các nhóm ngành khác tương đối ổn định.

          (3) Nhóm ngành điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: tăng 15,34% so với quý trước và giảm 10,17% so với cùng kỳ năm trước. Trong Quý I năm 2024, Tây Nguyên bắt đầu vào mùa khô, lượng nước trên các hồ thuỷ điện bắt đầu giảm, sản lượng điện sản xuất cũng giảm theo và giá điện sản xuất được tính theo giá bậc thang nên khi sản lượng điện sản xuất giảm giá điện sẽ tăng.

          (4) Nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải: tăng 0,59% so với quý trước và giảm 0,92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số giá nước tự nhiên khai thác dùng cho sinh hoạt tăng 2,27% so với quý trước và giảm 3,43% so với cùng kỳ năm trước; giá nước sinh hoạt tăng so với quý trước do trong quý IV/2023 chủ yếu là mùa mưa ở Tây Nguyên, nhu cầu sử dụng nước giảm nên giá nước giảm thấp; Chỉ số giá hoạt động thu gom, xử lý rác thải ổn định so với quý trước.

            4. Đầu tư và xây dựng

Xác định việc đẩy mạnh thực hiện kế hoạch đầu tư công là nhiệm vụ chính trị trọng tâm năm 2024, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã có nhiều văn bản chỉ đạo và yêu cầu tất cả các đơn vị liên quan triển khai đồng loạt các giải pháp quyết liệt, đồng bộ ngay từ những tháng đầu năm. Hoạt động đầu tư nói chung trên địa bàn tỉnh cơ bản được duy trì ổn định. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I năm 2024 ước tính tăng 11,81% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 0,09% so với cùng kỳ năm trước.

4.1. Vốn đầu tư

a) Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum quý I năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 5.712,44 tỷ đồng, tăng 11,81% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm:

- Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 731,09 tỷ đồng, chiếm 12,80% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước do trung ương quản lý là 216,51 tỷ đồng, nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý là 514,58 tỷ đồng, chủ yếu đầu tư phát triển các chương trình mục tiêu, xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế, ...

- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 4.977,32 tỷ đồng, tăng 23,43% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 87,13% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là 2.484,48 tỷ đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 2.492,84 tỷ đồng, chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, ...

- Vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quý I năm 2024 là 4,04 tỷ đồng tăng 297,25% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 0,07% trong tổng nguồn vốn.

Phân theo khoản mục đầu tư:

Vốn đầu tư XDCB: 4.190,59 tỷ đồng, chiếm 73,36% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư mua sắm TSCĐ dùng cho sản xuất không qua XDCB: 1.040,42 tỷ đồng, chiếm 18,21% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ: 350,18 tỷ đồng, chiếm 6,13% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động: 131,06 tỷ đồng, chiếm 2,29% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư khác: 0,2 tỷ đồng.

b) Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum quý I năm 2024 ước đạt 474,36 tỷ đồng, tăng 0,09% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:

Vốn Ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt 370,01 tỷ đồng, tăng 0,27% so với cùng kỳ và chiếm 78% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, môi trường nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn...Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách tỉnh đạt 202,89 tỷ đồng, chiếm 54,83%; Vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 152,96 tỷ đồng, chiếm 41,34%; Vốn Xổ số kiến thiết đạt 14,16 tỷ đồng, chiếm 3,83% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh.

Vốn Ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 104,35 tỷ đồng, giảm 0,55% so với cùng kỳ và chiếm 22% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa… trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách huyện đạt 84,63 tỷ đồng.

Trong quý I năm 2024 nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cải tạo nâng cấp các tuyến đường giao thông, kiên cố hóa các kênh mương, công trình cấp nước sinh hoạt; công trình giáo dục; y tế…

Nhìn chung nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý không tăng nhiều so với cùng kỳ nguyên nhân công tác bồi thường giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong công tác kiểm kê, bồi thường người dân chưa hợp tác nên mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến tiến độ thi công dự án...

4.2. Xây dựng

Ngay từ đầu năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Quyết định số 24/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2024 về Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các chủ đầu tư tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các dự án hạ tầng quy mô lớn, dự án trọng điểm, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất rừng, đất lúa, bảo đảm nguồn cung và kiểm soát giá nguyên vật liệu; hướng dẫn các chủ đầu tư trong quá trình quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ triển khai thi công các dự án trọng điểm của tỉnh. Trong quý I năm 2024, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục tích cực triển khai những công trình chuyển tiếp từ năm 2023 đồng thời khởi công các công trình mới có vốn đầu tư cao.

Giá trị sản xuất quý I năm 2024 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành ước đạt 4.449,49 tỷ đồng, tăng 5,44% so với cùng kỳ năm trước.

- Giá trị sản xuất chia theo loại hình sở hữu: Doanh nghiệp nhà nước đạt 209,31 tỷ đồng, tăng 86,66% so với cùng kỳ năm trước; Doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 2.999,53 tỷ đồng, tăng 2,36% so với cùng kỳ năm trước; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 0,7 tỷ đồng; Các loại hình khác (Hộ dân cư và xã/phường/thị trấn) đạt 1.239,96 tỷ đồng, tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Xã, phường/thị trấn đạt 14,86 tỷ đồng, tăng 6,70%; Hộ dân cư đạt 1.225,10 tỷ đồng, tăng 5,31% so với cùng kỳ năm trước.

-  Giá trị sản xuất chia theo loại công trình: Công trình nhà ở: 1.204,94 tỷ đồng, chiếm 27,08% trong tổng số và tăng 1,04% so với cùng kỳ năm trước; Công trình nhà không để ở: 204,88 tỷ đồng, chiếm 4,60% trong tổng số và tăng 0,22% so với cùng kỳ năm trước; Công trình kỹ thuật dân dụng: 2.966,13 tỷ đồng, chiếm 66,66% trong tổng số và tăng 7,64% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động xây dựng chuyên dụng: 73,54 tỷ đồng, chiếm 1,65% trong tổng số và tăng 9,30% so với cùng kỳ năm trước.

- Giá trị sản xuất quý I năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước tập trung ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước với các công trình trọng điểm về kỹ thuật dân dụng và nhà không để ở. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên, đột xuất đường bộ Quốc lộ 14, 24, các tỉnh lộ...; thực hiện công trình đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, sửa chữa trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc trên địa bàn các huyện, thành phố...  Các loại hình kinh tế khác (hộ dân cư, xã/phường/thị trấn) hoạt động xây dựng chủ yếu do hộ dân cư đầu tư xây dựng nhà ở mới, sửa chữa nhà ở và các công trình liên quan (sân, tường rào, nhà kho, các công trình khác…); các đơn vị xã, phường, thị trấn cùng nhân dân thực hiện thi công các công trình nhà văn hóa, nhà rông, hội trường, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, bê tông hóa các đường liên thôn, liên xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới...

Trong quý I năm 2024, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai thi công các công trình trọng điểm chuyển tiếp từ năm 2023 có vốn đầu tư cao như:

- Công trình kỹ thuật dân dụng: Đường trục chính phía Tây thành phố Kon Tum; Đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum với các huyện Sơn Tây, Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Mở rộng, nâng cấp đường Trường Chinh, thành phố Kon Tum; Kè chống sạt lở dọc sông Đăk Bla; các công trình chỉnh trang đô thị thành phố Kon Tum; Khai thác quỹ đất phát triển kết cấu hạ tầng Đường bao khu dân cư phía Nam thành phố Kon Tum (đoạn từ đường Hồ Chí Minh đến cầu treo Kon Klor); Đường giao thông từ xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy đi huyện Kbang tỉnh Gia Lai; Nâng cấp tuyến đường Đăk Man - Đăk Blô huyện Đăk Glei; Đường từ trung tâm huyện Sa Thầy đi Nhà máy thủy điện Ialy; các công trình đường giao thông liên xã huyện Sa Thầy, thành phố Kon Tum.... Công trình thủy điện: Dự án Nhà máy Thủy điện Ialy mở rộng; Thủy điện Plei kần hạ; Thủy điện Nước Long 1, Thủy điện Đăk Mi...

- Xây dựng công trình nhà không để ở: Nhà thi đấu tổng hợp tỉnh Kon Tum; Trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành và các hạng mục phụ trợ; Trụ sở làm việc các đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh; Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh; Trụ sở Công an huyện Kon Plong; Sửa chữa nâng cấp trường Cao đẳng Kon Tum...

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

5.1.Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong tháng 3 năm 2024 (tính đến ngày 20/3/2024) toàn tỉnh có 37 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 112,4 tỷ đồng, tăng 48% về số doanh nghiệp và giảm 29,67% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 03 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 03 doanh nghiệp đã giải thể; 03 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.

Tính chung 3 tháng đầu năm 2024 (tính đến ngày 20/3/2024) có 122 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 33,88% kế hoạch và tăng 41,86% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 772,3 tỷ đồng, đạt 19,31% kế hoạch và tăng 102,37% so với cùng kỳ. Có 24 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 46,67% so với cùng kỳ năm trước; 29 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 38,10% so với cùng kỳ năm trước; 200 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 72,41% so với cùng kỳ năm trước.

5.2. Tình hình sản xuất và xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

(1) Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo quý I năm 2024

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong Quý I/2024 cho thấy: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Quý I năm 2024 nhìn chung tương đối thuận lợi, phần lớn các doanh nghiện đã vượt qua giai đoạn khó khăn, có 36,36% đơn vị có đánh giá tình hình tốt hơn quý trước; 39,39% đánh giá giữ nguyên và chỉ còn 24,24% đơn vị đánh giá tình hình có khó khăn hơn so quý trước. Trong đó các đơn vị đánh giá khó khăn hơn chủ yếu ở một số nhóm ngành như sản xuất tinh bột sắn, chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng. Trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp đều dự báo tình hình sản xuất sẽ tốt hơn, cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất tốt hơn chiếm đến 48,48%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 36,36%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất khó khăn hơn chỉ còn 15,15%.

(2) Xu hướng sản xuất ngành xây dựng Quý I năm 2024

Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng quý I năm 2024 nhìn chung tương đối ổn định, trong đó số doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh không thay đổi chiếm 51%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn chiếm 8,2%; doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn chủ yếu là các doanh nghiệp đang có các công trình lớn trên địa bàn thực hiện chuyển tiếp của năm 2023 và các doanh nghiệp có khởi công công trình mới trong kỳ. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn chiếm tỷ lệ 40,8%; chủ yếu là những doanh nghiệp ít công trình chuyển tiếp từ năm 2023 và chưa có nhiều hợp đồng mới năm 2024.

Nhận định về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất ngành xây dựng thuận lợi hơn so với quý trước, do bắt đầu triển khai nhiều công trình mới, đẩy nhanh tiến độ các công trình đang thi công. Cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động xây dựng thuận lợi hơn chiếm 51%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất không đổi chiếm tỷ lệ 42,9%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất khó khăn hơn chiếm 6,1%.

Các đơn vị doanh nghiệp xây dựng đánh giá tổng thể về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo dựa trên cơ sở nhiều yếu tố. Trong đó, tổng chi phí cho hoạt động xây dựng là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quý tiếp theo có 95,9% số doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí không đổi hoặc tăng lên so với quý trước (trong đó số doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí tăng lên chiếm 59,2%), tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá chi mua nguyên vật liệu xây dựng không đổi hoặc tăng lên và chi phí nhân công không đổi hoặc tăng lên đều chiếm tỷ lệ 95,9%. Các doanh nghiệp đánh giá mức chi phí giảm xuống chủ yếu là những doanh nghiệp thực hiện đang gặp khó khăn về nguồn lực nên chưa nhận được hợp đồng mới trong các quý đầu năm.

Về tình hình sử dụng lao động: trong quý tiếp theo có 51% số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động tăng hơn so với quý trước. Doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên tăng chiếm 16,3% và nhận định lao động thời vụ tăng chiếm 49%.

Số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động không thay đổi so với quý trước chiếm tỷ lệ 44,9%; tỷ lệ doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên không thay đổi chiếm 79,6% và số doanh nghiệp nhận định lao động thời vụ không thay đổi chiếm 44,9%. Có 4,1% doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động giảm, trong đó tỷ lệ doanh nghiệp có lao động thường xuyên giảm chiếm 4,1%, doanh nghiệp có lao động thời vụ giảm chiếm 6,1%.

Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý I năm 2024 là không có hợp đồng xây dựng mới, giá nguyên vật liệu tăng cao, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế và thiếu nguồn cung về nguyên vật liệu. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong quý tiếp theo nhiều nhất là giá nguyên vật liệu tăng cao (chiếm 59,2%), không có hợp đồng xây dựng mới (chiếm 34,7%), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế (chiếm 34,7%), thiếu nguồn cung nguyên vật liệu xây dựng (chiếm 28,6%).

Về mong muốn được nhận hỗ trợ của doanh nghiệp: 55,1% doanh nghiệp muốn được hỗ trợ nguyên vật liệu; 40,8% doanh nghiệp muốn được hỗ trợ vay vốn; 28,6% doanh nghiệp mong muốn thông tin đấu thầu công khai, minh bạch; 26,5% mong muốn có chế tài xử phạt chủ đầu tư chậm thanh quyết toán nợ đọng xây dựng cơ bản; 18,4% doanh nghiệp cần được bàn giao mặt bằng đúng tiến độ.

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong quý I năm 2024, ngành nông nghiệp tập trung theo dõi sản xuất cây trồng vụ đông xuân; Người dân tiến hành khai thông mương dẫn nước, dự trữ nước để chuẩn bị cho nguồn nước tưới vào mùa khô. Hoạt động chăn nuôi phát triển ổn định, tập trung công tác tăng đàn, tái đàn vật nuôi nhằm chủ động nguồn cung cấp thực phẩm ra thị trường. Hoạt động lâm nghiệp duy trì ổn định, công tác quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng được tăng cường.

 

6.1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

- Tính đến thời điểm ngày 15/3/2024 tổng DTGT cây hàng năm vụ đông xuân trên địa tỉnh là: 9.723 ha, tăng 1,1% (+103,9 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể,  diện tích của một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:

Cây lúa gieo trồng được 7.192 ha, giảm 0,57% (-40,9 ha). Diện tích gieo trồng các loại cây khác là 2.530 ha, tăng 6,1% (+144,9 ha). Diện tích tăng ở hầu hết tất cả các loại cây trồng,.... Trong đó, cây ngô diện tích gieo trồng được 706 ha, tăng 1,73%;  rau các loại gieo trồng được 1.222 ha, tăng 6,45%; đậu các loại gieo trồng được 107 ha, tăng 18,89%; khoai lang gieo trồng được 17 ha, tăng 13,33%. Diện tích rau, đậu các loại tăng là do người dân mở rộng diện tích gieo trồng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của người tiêu dùng. Diện tích lạc gieo trồng được 18 ha, giảm 28%, do trồng lạc hiệu quả kinh tế không cao nên người dân giảm diện tích gieo trồng.

Nhìn chung, các loại cây trồng vụ đông xuân sinh trưởng và phát triển khá tốt: cây ngô đang trong giai đoạn phát triển trổ cờ-phun râu, cây lạc đang trong giai đoạn phun cành, ra hoa... Tuy nhiên, do thời tiết về đêm và sáng sớm trời lạnh, ngày thì nắng nóng, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm chênh lệch nhiều, tạo điều kiện thuận lợi để một số sinh vật gây hại xuất hiện và sinh trưởng nhanh, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng. Chính vì vậy, các cơ quan chuyên môn đã phối hợp với các địa phương tăng cường công tác kiểm tra tình hình sản xuất, sinh vật gây hại và hướng dẫn người dân chăm sóc và phòng trừ sinh vật gây hại kịp thời nhằm hạn chế mức thấp nhất của sâu bệnh hại gây ra. Ngoài ra, các cơ quan chức năng tiếp tục tuyên truyền vận động, hướng dẫn hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phát triển cây trồng theo hướng hữu cơ đối với các cây rau củ, quả, cây trồng bản địa, đặc trưng, như rau, củ quả xứ lạnh ở huyện Kon Plông.

- Ước tính đến thời điểm 31/3/2024 tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh Kon Tum là 130.482 ha, tăng 6,5% (+7.958 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Diện tích cây ăn quả hiện có là 14.020 ha, tăng 46,10% (+4.424 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây ăn quả tăng cao là do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nhiều nhóm cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế như chuối, sầu riêng, chanh leo, mắc ca, mít… Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường ổn định nên nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung vào những nông sản có giá trị để xuất khẩu như chanh leo, chuối, sầu riêng… đồng thời các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại, do đó nhiều nông dân và doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi từ cây hàng năm hiệu quả không cao sang trồng cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

Diện tích cây cà phê hiện có 29.846 ha, tăng 2,46% (+718 ha); Diện tích cây cao su hiện có 79.091 ha, tăng 2% (+1.550 ha) so với cùng kỳ năm trước.

Trên địa bàn tỉnh Kon Tum, cây trồng trọng điểm là cây cao su và cây cà phê. Hiện tại cây cà phê trong giai đoạn sinh trưởng. Sản lượng cao su ước đến 31/3/2024 đạt 5.937 tấn, tăng 6,7% (+375 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tăng là do diện tích cho sản phẩm tăng.

b) Chăn nuôi

- Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính đến thời điểm 31/3/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

Tổng đàn trâu 24.165 con, tăng 1% (+243 con). Số con xuất chuồng là 731 con, tăng 1,5% (+11 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 190 tấn, tăng 1,6% (+3 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn bò 85.510 con, tăng 1% (+860 con). Số con xuất chuồng là 7.375 con, tăng 2,6% (+185 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 1.291 tấn, tăng 2,6% (+33 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn lợn 172.214 con, tăng 9,8% (+15.352 con). Số con xuất chuồng là 61.510 con, tăng 5,5% (+3.233 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 4.845 tấn, tăng 5,5% (+254 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn gia cầm 2.052.400 con, tăng 4,8% (+94.600 con). Trong đó: đàn gà 1.802.150 con, tăng 4,8% (+82.195 con). Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 1.743 tấn, tăng 6,4% (+105 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 1.528 tấn, tăng 6,5% (+93tấn).

- Tình hình dịch bệnh trong quý I năm 2024

Trong Quý I năm 2024 (từ ngày 01/01/2024 đến nay), một số dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở động vật như bệnh Lở mồm long móng ở trâu bò, bệnh Dại chó mèo đã xảy ra với quy mô nhỏ. Các địa phương đã chủ động triển khai các biện pháp phòng chống dịch theo quy định. Đến nay các ổ bệnh đã được khống chế, dập tắt và không lây lan ra diện rộng. Cụ thể như sau:

Bệnh Lở mồm long móng ở trâu, bò: Trong Quý I năm 2024, bệnh Lở mồm long móng đã xảy ra trên 102 con gia súc của các hộ chăn nuôi trên địa bàn các huyện Đăk Glei, Tu Mơ Rông và thành phố Kon Tum; Các địa phương đã triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống theo quy định, chăm sóc và nuôi dưỡng khỏi triệu chứng lâm sàng cho 113 con gia súc, tiêu huỷ 09 con trâu; Đến nay dịch bệnh đã được khống chế, dập tắt và không lây lan ra diện rộng.

Bệnh Dại chó, mèo: Trong Quý I năm 2024, tại thôn Kiến Hưng, xã YaLy, huyện Sa Thầy đã xảy ra trường hợp chó lạ từ nơi khác đến (không xác định được nguồn gốc, lai lịch) cắn nhiều chó, mèo trong thôn, nghi ngờ mắc bệnh dại. Địa phương đã kịp thời triển khai các biện pháp phòng, chống theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn thú y, tổ chức lấy mẫu gửi xét nghiệm, tiêu huỷ 91 con chó, mèo (01 con chó dại, 88 con chó và 02 con mèo bị phơi nhiễm).

6.2. Lâm nghiệp

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đang là mùa khô, công tác phòng cháy chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh được các ngành chức năng tăng cường chỉ đạo công tác bảo vệ rừng trong thời gian mùa khô. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức cho người dân địa phương về phòng cháy chữa cháy rừng được tăng cường. Tính đến ngày 15/3/2024, trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng; xảy ra 05 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 1,25 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

- Công tác trồng rừng: Hiện nay đang là thời điểm mùa khô ở Tây Nguyên nên công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh chưa tiến hành.

- Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 31/3/2024, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 33.240 m3, tăng 2% (+655 m3) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng củi khai thác ước đạt 68.800 ster, tăng 1,5% (+985 ster) so với cùng kỳ năm trước.

6.3. Thuỷ sản

          Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm. Nhìn chung đến nay hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và đạt được một số kết quả đáng khích lệ.

          - Ước tính đến 31/3/2024, diện tích nuôi trồng thủy sản là 955 ha, tăng 13,56% (+114 ha) so với cùng kỳ năm trước.

          - Sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.499 tấn, tăng 7,3% (+102 tấn) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 989 tấn, tăng 7,97% (+73 tấn) so với năm trước; Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 510 tấn, tăng 6,03% (+29 tấn) so với năm trước.

          Sản lượng thủy sản trong kỳ tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với năm trước, cùng với khai thác đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối tăng.

- Chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục được triển khai quyết liệt([3]). Toàn tỉnh hiện có 44 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó có 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu); bình quân toàn tỉnh đạt 16,28 tiêu chí/xã; có 28 thôn đạt chuẩn khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu và 45 thôn (làng) vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt chuẩn thôn nông thôn mới. Toàn tỉnh có có 236 sản phẩm (OCOP) còn hiệu lực, trong đó: 01 sản phẩm 5 sao, 06 sản phẩm tiềm năng 5 sao (đang đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đánh giá), 14 sản phẩm 4 sao, 19 sản phẩm tiềm năng 4 sao đang đề nghị Hội đồng OCOP cấp tỉnh đánh giá và 196 sản phẩm 3 sao. Việc xây dựng, phát triển sản phẩm OCOP đã góp phần quan trọng vào việc khơi dậy tính cộng đồng của người dân trong phát triển kinh tế.

7. Sản xuất công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong quý I năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước (chỉ số chung tăng 11,06%), hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Đối với ngành công nghiệp chế biến chế tạo mặc dù còn chịu nhiều tác động bởi khó khăn của tình tình kinh tế trong và ngoài nước song các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn duy trì hoạt động ổn định, một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất, sản xuất bàn, ghế... do nguồn nguyên liệu đảm bảo và tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn đinh. Ngành sản xuất, phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng do thời tiết trên địa bàn tỉnh tương đối thuận lợi, lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy thủy điện hoạt động ổn định nên sản lượng điện sản xuất tăng so cùng kỳ. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định trong các tháng đầu năm. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 3 ước tính tăng 8,82 % so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2024, chỉ số IIP ước tính tăng 11,06% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 10,02%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,15%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,49%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 9,63%.

7.1. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 3 năm 2024 ước tính tăng 8,82% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung trong tháng các ngành sản xuất trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định hơn và đều có chỉ số sản xuất tăng so cùng kỳ. Cụ thể chỉ số sản xuất các ngành như sau: ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 6,68% do nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao ở các công trình xây dựng; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,33% và tăng chủ yếu ở các ngành như chế biến thực phẩm (đường, tinh bột sắn), chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm hóa chất (sản phẩm cồn sinh học)... do tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn định, nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất luôn đảm bảo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,05%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,37%.

So tháng trước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2024 giảm 4,58%. Trong đó giảm chủ yếu ở ngành sản xuất, phân phối điện (giảm 14,57%) do hiện tại đang cao điểm mùa khô, lượng nước trên các hồ chứa đã bắt đầu giảm, ngành điện chủ động điều tiết sản lượng điện để duy trì sản xuất điện ổn định trong mùa khô; ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 21,63% và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 24,37% so tháng trước do sang tháng 3 các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã hoạt động sản xuất ổn định trở lại sau thời gian tạm nghỉ để đón tết Nguyên đán, các sản phẩm sản xuất đều tăng nên chỉ số sản xuất 2 ngành này tăng cao; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm nhẹ so tháng trước do lượng rác thải thu gom và xử lý giảm sau tết Nguyên đán.

Chỉ số sản xuất công nghiệp Quý I năm 2024 ước tính tăng 11,06% so cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 10,02%, nguyên nhân ngay từ đầu năm trên địa bàn tỉnh đã triển khai nhiều công trình xây dựng, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,15%, trong đó tăng chủ yếu ở một số ngành như chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất (sản phẩm cồn sinh học), sản xuất bàn, ghế... do nguồn cung cấp nguyên liệu đảm bảo và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,49%, do cuối năm trước và đầu năm nay thời tiết trên địa bàn tỉnh thuận lợi, mùa mưa kết thúc chậm, mặt dù trên địa bàn tỉnh đang mùa khô nhưng lượng nước trên các hồ chứa vẫn còn đảm bảo cho các nhà máy thủy điện hoạt động ổn định; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,63%.  

Chỉ số sản xuất quý I năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II điều tăng so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 10,02%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,30%; Sản xuất trang phục tăng 6,58%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 21,32%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 2,96%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 9,06%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 3,90%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 5,59; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 4,28%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,16%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 11,49%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,43%. Ở chiều ngược lại, ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 2,68%

7.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp

Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 3 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Điện sản xuất đạt 232,92 triệu Kwh tăng 9,69%; Đá xây dựng đạt 116.187 m3 tăng 9,8%; Tinh bột sắn đạt 30.235 tấn tăng 2,24%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 2.511 m3, tăng 20,82%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 14,75 triệu trang giảm 34,25%; Cồn béo công nghiệp đạt 720 tấn tăng 12,50%; Phân vi sinh đạt 110 tấn tăng 4,76%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 15,57 triệu viên, tăng 10,37%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 18.539 chiếc, tăng 5,66%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 7.766 chiếc, tăng 0,63%...

Tính chung quý I năm 2023, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều có sản lượng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 836,7 triệu Kwh tăng 12,00%; Đá xây dựng đạt 116.187 m3 tăng 9,8%; Tinh bột sắn đạt 88.011 tấn tăng 5,44%; Đường RE đạt 9.876 tấn, tăng 38,47%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 401,8 ngàn cái, tăng 8,55%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 8.203 m3, tăng 21,32%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 50,8 triệu trang tăng 2,96%; Cồn béo công nghiệp đạt 2.028 tấn tăng 9,88%; Phân vi sinh đạt 306 tấn tăng 2,0%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 453 tấn, tăng 3,90%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 43,64 triệu viên, tăng 14,84%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 92,8 nghìn viên, tăng 13,63%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 5.787 tấn, tăng 7,97%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 61.100 chiếc, tăng 12,72%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 25.731 chiếc, tăng 23,67%...

7.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 3/2024 ước tính giảm 0,07% so với tháng trước và tăng 0,72% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,24% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước giảm 1,25%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 2,67%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 8,87%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,51%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,36%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,53% so với cùng kỳ năm trước.

7.4. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3 năm 2024 ước tính tăng 17,57% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm trong tháng tương đối thuận lợi, hầu hết các nhóm ngành đều có chỉ số tiêu thụ tăng. 

7.5. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đến thời điểm 31/3/2024 giảm 18,46% so với cùng thời điểm năm trước. Hiện tại các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất ổn định, lượng sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết nên chỉ số tồn kho giảm.

8. Thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng Ba khá sôi động với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 1,73% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 3 năm 2024 tăng so với tháng trước là do sau thời gian nghỉ Tết Nguyên đán trong tháng 02, các cơ sở sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ đã nhanh chóng trở lại hoạt động sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng nên doanh thu các ngành này tăng so với tháng trước. Tính chung quý I năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 9,18%.

6.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng Ba năm 2024 đạt 3.116,13 tỷ đồng, tăng 1,73% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.627,23 tỷ đồng, chiếm 84,31% trong tổng số, tăng 1,93% so với tháng trước và tăng 10,57% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 307,9 tỷ đồng, chiếm 9,88% trong tổng số, tăng 0,79% so với tháng trước và tăng 6,77% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 180,99 tỷ đồng, chiếm 5,81% trong tổng số, tăng 0,56% so với tháng trước và tăng 16,28% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung quý I năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 9.326,47 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I năm 2024 ước đạt 7.811,34 tỷ đồng, chiếm 83,75% trong tổng số và tăng 9,18% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 7,45%; Hàng may mặc, tăng 19,33%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 8,29%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 6,11%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 4,19%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 6,93%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 15,71%; Xăng, dầu các loại, tăng 13,25%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 24,15%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 22,07%; Hàng hoá khác, tăng 1,96%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 11,41%.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch quý I năm 2024 ước đạt 908,03 tỷ đồng, chiếm 9,74% trong tổng số và tăng 9,32% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 57,46 tỷ đồng, tăng 21,60%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 849,67 tỷ đồng, tăng 8,57%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 0,96 tỷ đồng tăng 22,07% so với cùng kỳ năm 2023.

- Doanh thu dịch vụ khác quý I năm 2024 ước đạt 607,1 tỷ đồng, chiếm 6,51% trong tổng số và tăng 17,56% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước phải kể đến như: Dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 33,94%; Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 8,59%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hổ trợ tăng 23,88%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 26,14%...

Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính quý I năm 2024 tăng cùng kỳ năm trước là do: Trong 3 tháng đầu năm 2024 (thời điểm diễn ra Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024), để bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường trên địa bàn tỉnh Kon Tum, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-UBND ngày 26/12/2023 về tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Công văn số 807/UBND-KTTH ngày 11/3/2024 về việc triển khai thực hiện công tác quản lý, điều hành giá năm 2024 và các doanh nghiệp, hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mại tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong 3 tháng đầu năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các toa, tuyến tham quan du lịch … sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3)… hấp dẫn phục vụ du khách dịp Tết, Lễ hội.

6.2. Hoạt động xuất, nhập khẩu

Xuất khẩu: Ước kim ngạch xuất khẩu tháng 3 đạt 26,2 triệu USD đưa tổng kim ngạch quý I năm 2024 ước đạt 78 triệu USD, tăng 8,33% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 24,38% kế hoạch năm đề ra (320 triệu USD).

Nhập khẩu: Ước kim ngạch nhập khẩu tháng 3 đạt 0,8 triệu USD đưa tổng kim ngạch quý I năm 2024 ước đạt 1,4 triệu USD, tăng 42,86% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 19,44% kế hoạch năm đề ra (7,2 triệu USD). Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là hóa chất, chất dẻo nguyên liệu…

6.3. Hoạt động vận tải, kho bãi

Hoạt động vận tải tháng 3 năm 2024 giảm so với tháng trước, nguyên nhân chủ yếu là do sau Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 nhu cầu đi lại của người dân giảm mạnh, vận chuyển hàng hóa phục vụ ngành xây dựng chưa sôi động trở lại. Hoạt động vận tải tháng 3 năm 2024 tăng 6,86% về lượng khách vận chuyển và tăng 5,29% lượng hàng hóa vận chuyển so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2024 tăng 8,88% về lượng khách vận chuyển và tăng 7,08% lượng hàng hóa vận chuyển so với cùng kỳ năm trước.

  1.  Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 3 năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 3 năm 2024 đạt 245,64 tỷ đồng, giảm 1,79% so với tháng trước và tăng 17,89% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 72,25 tỷ đồng (so với tháng trước giảm 4,33%), so với cùng kỳ năm trước tăng 29,52%; Vận chuyển ước đạt 985 nghìn lượt khách, tăng 8,68%; Luân chuyển ước đạt 127.609 nghìn lượt khách.km, tăng 8,9%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 156,1 tỷ đồng (so với tháng trước giảm 0,78%), so với cùng kỳ năm trước tăng 13,13%; Vận chuyển ước đạt 1.589 nghìn tấn, tăng 5,29%; Luân chuyển ước đạt 79.689 nghìn tấn.km, tăng 6,09%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1,87 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 24,12%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 15,42 tỷ đồng, tăng  17,79%.

(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính quý I năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính quý I năm 2024 đạt 737,28 tỷ  đồng, tăng 19,58% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 218,62 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 37,62%; Vận chuyển ước đạt 3.005 nghìn lượt khách, tăng 8,88%; Luân chuyển ước đạt 384.235 nghìn lượt khách.km, tăng 9,11%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 467,17 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,93%; Vận chuyển ước đạt 4.799 nghìn tấn, tăng 7,08%; Luân chuyển ước đạt 238.839 nghìn tấn.km, tăng 7,61%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 5,65 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 24,7%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 45,84 tỷ đồng, tăng  16,72%.

9. Các vấn đề xã hội

9.1. Lao động và việc làm

Trong quý I năm 2024, nhìn chung tình hình lao động việc làm tăng so với cùng kỳ năm trước cả 3 khu vực: nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và dịch vụ là do tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, tạo cơ hội cho lao động tham gia là yếu tố làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lao động có việc làm trong quý tăng, từ đó làm giảm đi tình trạng thất nghiệp.

(1) Lực lượng lao động và thất nghiệp

- Xu hướng tăng/giảm của lực lượng lao động: Ước tính đến cuối quý I năm 2024, tổng số người từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Kon Tum là 411.053 người, trong đó: nữ 202.853 người, chiếm 49,35%; khu vực thành thị là 137.383 người, chiếm 33,42% trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên. Lực lượng lao động của tỉnh trong những năm qua tăng cả về quy mô và chất lượng.

Ước tính đến cuối quý I năm 2024, toàn tỉnh có 338.403 người thuộc lực lượng lao động, trong đó lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 105.084 người chiếm 31,05%, khu vực nông thôn là 233.319 người chiếm 68,95% lực lượng lao động; Tỷ lệ nam tham gia lực lượng lao động chiếm 51,41% (173.989 người), và tỷ lệ này ở nữ là 48,59% (164.414 người).

Qua thực tế tình hình tại địa phương, lực lượng lao động trong quý tăng là do tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển ổn định. Sản xuất nông nghiệp cơ bản đảm bảo duy trì diện tích các loại cây trồng; chăn nuôi phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, khách du lịch tăng cao so với cùng kỳ năm trước; Lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Nhiều Doanh nghiệp đã phục hồi sản xuất do đã  tìm kiếm được đơn hàng ổn định đối với các mặt hàng may mặc, giày da, các mặt hàng chế biến nông sản… Bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh; Xây dựng 236 sản phẩm OCOP còn hiệu lực đạt từ 3 đến 5 sao tạo cơ hội việc làm cho người lao động, thúc đẩy lực lượng lao động tham gia, là yếu tố làm cho lực lượng lao động tăng cao so với cùng kỳ năm trước trong cả 3 khu vực.

- Tỷ lệ thất nghiệp: Số người thất nghiệp ước tính đến cuối quý I năm 2024 là 2.148 người, tỷ lệ thất nghiệp là 0,63% trong tổng số lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh, giảm 0,22% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nữ có 1.155 người, chiếm tỷ lệ 53,79% trong tổng số người thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ là 0,70%, giảm 0,38% so với cùng kỳ năm trước và cao hơn tỷ lệ thất nghiệp của nam 1,13% (0,70% so với 0,57%). Khu vực thành thị có số người thất nghiệp tương đối cao 1.175 người, tỷ lệ thất nghiệp là 1,12%, khu vực nông thôn có tỷ lệ thất nghiệp là 0,42% (973 người). Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh Kon Tum đang ở mức thấp so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên nói riêng và trên toàn quốc nói chung.

Tính từ đầu năm đến nay giải quyết việc làm cho 942 lao động[4], trong đó cung ứng, giới thiệu 126 lao động làm việc trong và ngoài tỉnh; số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là 78 người; giải quyết việc làm thông qua nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm 738 lao động

 - Tình hình nhận trợ cấp thất nghiệp: Trong quý, có 401 hồ sơ được thẩm định và giải quyết cho 406 người được nhận trợ cấp thất nghiệp, tăng 27,67% (88 người) so với cùng kỳ năm trước. Với số tiền chi trả nhận trợ cấp thất nghiệp là 8.217,25 triệu đồng[5] .

(2) Lao động có việc làm

- Xu hướng tăng/giảm của lao động có việc làm: Trong tổng số lực lượng lao động trên toàn tỉnh, số lao động có việc làm là 336.255 người, chiếm 99,37% trong lực lượng lao động trên toàn tỉnh. Trong đó, lao động có việc làm ở khu vực nông thôn chiếm phần lớn, với 232.347 người chiếm 69,10% (do dân số ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 2/3 dân số trên toàn tỉnh).

So sánh Lao động có việc làm/Lực lượng lao động giữa hai khu vực thành thị và nông thôn thì khu vực nông thôn có tỷ lệ lao động có việc làm cao hơn khu vực thành thị 0,70 điểm phần trăm (99,58% và 98,88%). Tỷ lệ này ở lao động có việc làm giữa nam và nữ chênh lệch không đáng kể 0,13 điểm phần trăm (99,43% và 99,30%).

- Chuyển dịch cơ cấu ngành: Lao động có việc làm trong 03 khu vực kinh tế so với cùng kỳ năm trước và so với quý trước đều tăng; cụ thể như sau:

+ Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Trong quý 1/2024 số lao động có việc làm khu vực này là 237.665 người, tăng 2,63% (tăng 6.079 người) so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đã ổn định và phát triển bền vững, giá các mặt hàng nông nghiệp tăng cao, diễn biến thời tiết cơ bản thuận lợi, nông dân đang tập trung chăm sóc cây trồng… là điều kiện để thuê lao động tham gia hoạt động lao động trong khu vực này.

 + Khu vực công nghiệp, xây dựng: Trong quý 1/2024, lao động có việc làm trong khu vực này dự ước tăng so quý trước, và cũng tăng so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do tình hình sản xuất của nhiều doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã ổn định trở lại, khó khăn về đơn hàng trong ngành công nghiệp đã được giải quyết phần nào. Về hoạt động xây dựng, quý I/2024 là những tháng đầu năm, là mùa khô của khu vực Tây Nguyên nên người dân tranh thủ đầu tư xây dựng, sửa chữa nhà cửa để đón năm mới, các công trình cơ sở hạ tầng được gấp rút hoàn thiện cho kịp tiến độ nên lao động có việc làm trong khu vực này tăng mạnh so với quý trước. Lao động có việc làm trong khu vực này là 25.349 người, tăng 8,15% (1.911 người) so với cùng kỳ năm trước.

+ Khu vực dịch vụ: Trong quý I/2024, lao động có việc làm trong khu vực này là 73.241 người, tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực dịch vụ có xu hướng phát triển tích cực là do Quý I năm 2024 là thời điểm có Tết Nguyên đán Giáp Thìn, các hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch trên địa bàn tỉnh rất nhộn nhịp và sôi động. Do đó, lao động có việc làm trong khu vực này dự ước tiếp tục tăng so quý trước và cùng kỳ năm trước.

- Tình hình thiếu việc làm: Số người thiếu việc làm ước tính đến cuối quý I năm 2024 là 1.678 người, tỷ lệ thiếu việc làm là 0,50% trong tổng số lực lượng lao động, tăng 0,003% so với cùng kỳ năm trước (1.678 người so với 1.623người). Song đối với vùng nông thôn chiếm phần lớn 1.113 người, chiếm 66,3% trong tổng số, một phần do tính chất công việc lao động ở khu vực nông thôn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cho nên tình trạng thiếu việc làm luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nông thôn trong tổng số lực lượng lao động nông thôn là 0,48%. Tương tự, lao động nam thiếu việc làm tương đối cao (1.048 người) chiếm tỷ lệ 62,43% trong tổng số người thiếu việc làm; tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nam là 0,60% so với lực lượng lao động là nam giới; và tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nữ là 0,38% so với lực lượng lao động là nữ giới. Nhìn chung, tỷ lệ thiếu việc làm của tỉnh Kon Tum đang ở mức thấp so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên nói riêng và trên toàn quốc nói chung. Điều này là do tỉnh Kon Tum là tỉnh có ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế. Tính chất đặc thù công việc nông nghiệp thường theo thời vụ nên xảy ra tình trạng nông nhàn, một số lao động giản đơn không có kỹ năng không thể tham gia các công việc khác nên chỉ thiếu việc làm trong thời gian rãnh việc.

9.2. Tình hình đời sống dân cư, an sinh xã hội

(1) Đời sống cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động

Tình hình đời sống dân cư Quý I năm 2024 trùng với thời điểm Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Mặc dù, điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn khó khăn, nhưng các cấp, ngành và địa phương đã nỗ lực huy động, vận động các nguồn lực, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; kịp thời thăm hỏi động viên, tặng quà, cấp hàng cứu trợ, thực hiện một số chế độ, chính sách về tiền lương, khen thưởng, hỗ trợ Tết đối với cán bộ, công chức, người lao động, người có hoàn cảnh khó khăn..., góp phần động viên Nhân dân an tâm vui xuân, đón Tết. Thực hiện tốt công tác đảm bảo cung ứng hàng hóa, vận tải hành khách, thông tin liên lạc, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định, không có vụ việc phức tạp xảy ra. Tuy nhiên, trong thời điểm trước Tết Nguyên đán còn xảy ra tình trạng thiếu nước sinh hoạt cục bộ tại một số phường trên địa bàn thành phố Kon Tum; nguyên nhân là do công suất của Nhà máy nước thuộc Công ty Cổ phần cấp nước Kon Tum không đủ để cung cấp cho người dân. Dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, UBND tỉnh Kon Tum đã thống nhất phương án hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo đón Tết. Theo đó, hộ nghèo được hỗ trợ 600.000 đồng/hộ, hộ cận nghèo 300.000 đồng/hộ . Trong điều kiện hoạt động sản xuất, kinh doanh còn khó khăn nhưng các doanh nghiệp đã chi trả đủ tiền lương năm 2023 cho người lao động và hầu hết đều thưởng Tết cho công nhân, người lao động với mức cao nhất là 20,62 triệu đồng/người, thấp nhất là 500.000 đồng/người.

(2) Công tác an sinh xã hội:

Công tác hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em, chi trả cho các đối tượng hưởng chính sách, thăm hỏi và tặng quà cho các Trung tâm Bảo trợ xã hội… phục vụ người dân đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 được triển khai chu đáo, kịp thời. Tổ chức thăm, tặng quà cho 5.079 đối tượng là người có công[6] với tổng kinh phí là 3.026 triệu đồng[7]. Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP với kinh phí thực hiện 32.242 triệu đồng. Công tác hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 được triển khai kịp thời với tổng kinh phí thực hiện là 8.102 triệu đồng (trong đó, đã hỗ trợ 10.220 hộ nghèo với mức 600.000 đồng/hộ; 6.568 hộ cận nghèo với mức 300.000 đồng/hộ). Ngoài ra, Quỹ Thiện Tâm đã hỗ trợ 1.500 suất quà, trị giá 600.000 đồng/suất cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn các huyện Tu Mơ Rông, Sa Thầy, Đăk Tô, Đăk Hà và Kon Plông.

Cấp 281.198 thẻ BHYT miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng, cụ thể: Người có công 2.921 thẻ, Bảo trợ xã hội 7.940 thẻ; Đối tượng nghèo 52.737, trẻ em dưới 6 tuổi 71.397 thẻ; Tham gia kháng chiến 3.608 thẻ; Người DTTS sống tại vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn 117.651 thẻ; Người sống tại vùng đặc biệt khó khăn 18.605 thẻ và các đối tượng còn lại 6.339 thẻ.

Tiếp nhận, phân bổ 146,73 tấn gạo hỗ trợ của Chính phủ cho các địa phương; trong đó, hỗ trợ 76,86 tấn gạo cho 1.570 hộ/ 5.124 khẩu nghèo có nguy cơ thiếu đói dịp Tết Nguyên đán; 69,87 tấn gạo cho 1.384 hộ/4.658 khẩu nghèo có nguy cơ thiếu đói dịp giáp hạt năm 2024, số lượng gạo hỗ trợ các đối tượng năm 2024 tăng hơn năm trước là do lượng gạo hỗ trợ của Chính phủ cấp tăng so năm 2023. Ngoài ra, các huyện cũng đã chủ động rà soát, xuất ngân sách hỗ trợ cho người dân có nguy cơ thiếu đói trên địa bàn, với số lượng gạo hỗ trợ là 63,48 tấn cho 1.411 hộ/4.232 khẩu.

9.4. Tình hình nổi bật, bất thường về xã hội

Trong quý I năm 2024, lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh được đảm bảo. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời, cụ thể:

a) Về y tế

Trong quý, Ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, các dịch bệnh trên người được kiểm soát tốt. Dịp Tết Nguyên đán, các cơ sở khám, chữa bệnh công lập bố trí trực 24/24 giờ; đảm bảo đủ nhân lực, thuốc, vật tư, thiết bị, bố trí cơ số giường bệnh, phương tiện xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu phát sinh trong ngày Tết; Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm được triển khai thực hiện nghiêm túc.

 (1)Tình hình dịch bệnh tháng 02 năm 2024

- Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, ghi nhận 02 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 01, Tu Mơ Rông 01), tăng 01 ca so với tháng trước, tăng 01 ca so với tháng 02/2023. Luỹ tích đến 29/02/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 03 ca mắc (thành phố Kon Tum 02, Tu Mơ Rông 01); tăng 02 ca so với cùng kỳ năm trước.

 - Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 04 ca mắc mới (Đăk Tô 01, Tu Mơ Rông 03), giảm 07 ca so với tháng trước, giảm 10 ca so với tháng 02/2023. Luỹ tích đến 29/02/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 15 ca mắc (Đăk Tô 08, Tu Mơ Rông 03, Kon Rẫy 02, Kon Plông 02), giảm 10 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 02 ca mắc mới (Đăk Tô 01, Tu Mơ Rông 01), giảm 22 ca so với tháng trước, giảm 01 ca so với tháng 02/2023. Luỹ tích đến 29/02/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 26 ca mắc (Đăk Hà 17, Đăk Tô 08, Tu Mơ Rông 01), tăng 22 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 03 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 02, Kon Rẫy 01), giảm 02 ca so với tháng trước, tăng 02 ca so với tháng 02/2023. Luỹ tích đến 29/02/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 08 ca mắc (thành phố Kon Tum 04, Đăk Tô 03, Kon Rẫy 01), tăng 05 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Bệnh Lao: Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 20 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 09, Đăk Hà 05, Đăk Tô 02, Đăk Glei 01, Kon Rẫy 01, Sa Thầy 01, Ia H’drai 01), giảm 08 ca so với tháng trước, giảm 08 ca so với tháng 02/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 29/02/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 48 ca mắc 1 , tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao phổi AFB (+): 32, lao phổi AFB (-): 03 và lao ngoài phổi: 13. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 29/02/2024: ghi nhận 2.357 ca; trong đó tử vong 26 ca, hoàn thành điều trị 2.092 ca và đang được quản lý điều trị 239 ca.

 - Bệnh Phong: Lũy tích từ 01/01/2024 đến 29/02/2024, không có tử vong, không ghi nhận ca mắc mới. Quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên): Đang quản lý 51 bệnh nhân; bệnh nhân cũ điều trị nội trú còn lại đầu tháng 06; bệnh nhân đến khám (kê đơn) trong tháng 16 lượt; bệnh nhân nhập viện trong tháng 11; bệnh nhân xuất viện trong tháng 04; bệnh nhân hiện còn đang điều trị nội trú 13.

- Tổng số công dân nhập cảnh được kiểm tra, giám sát trong tháng: 11.542 người. Qua giám sát chưa phát hiện các trường hợp nhập cảnh có biểu hiện nghi ngờ mắc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

- Trong 02 tháng đầu năm 2024, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID-19); Cúm A (H5N1, H7N9...), Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), Đậu mùa khỉ, Cúm A(H1N1), Bệnh do vi rút Zika, Bạch hầu, Dại, Ho gà, Sởi, sốt rét, Bệnh viêm não Nhật Bản, Bệnh viêm gan vi rút A...

(2) Tiêm chủng mở rộng

- Tiếp tục triển khai tiêm bổ sung vắc xin uốn ván cho phụ nữ tuổi sinh đẻ vùng nguy cơ cao trên địa bàn toàn tỉnh, kết quả tiêm đến 29/02/2024 có 7.770 đối tượng được tiêm, đạt tỷ lệ 91,9%.

- Tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại cho người từ 12 tuổi trở lên, kết quả đến 29/02/2024:

 + Nhóm đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,73%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 98,76%; tỷ lệ tiêm liều bổ sung đạt 96,7%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 1 đạt 92,54%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 2 đạt 100%.

 + Nhóm đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,52%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại đạt 95,27%.

+ Nhóm đối tượng từ 5 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,3%.

Phòng chống HIV/AIDS:

- Tình hình HIV/AIDS trong tháng 02/2024: Số người ghi nhận nhiễm HIV trong tháng 02 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật), bệnh nhân tử vong 02 người.

- Lũy tích HIV/AIDS tính đến ngày 29/02/2024: Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS 592 người; trong đó tử vong do HIV/AIDS 211 người, nhiễm HIV/AIDS còn sống 381 người (còn sống đang quản lý và tiếp cận được 258); nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 305 người, trong đó còn sống 105.

- Điều trị ARV: Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 29/02/2024 là 197 bệnh nhân (có 08 trẻ em). Tổng số bệnh nhân điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 08.

 

 (3) An toàn vệ sinh thực phẩm

- Tham mưu ban hành Chương trình công tác trọng tâm bảo đảm an toàn thực phẩm năm 2024 của Ban chỉ đạo Liên ngành an toàn thực phẩm; chuẩn bị nội dung phục vụ Đoàn Kiểm tra liên ngành Trung ương dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn và mùa Lễ hội Xuân năm 2024.

 - Cấp 04 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm (cấp mới: 02 cơ sở, cấp lại: 02 cơ sở) và tiếp nhận bản tự công bố của 01 sản phẩm.

 - Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng, xảy ra 3 trường hợp ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ do ăn uống không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

b) Về văn hóa và thể thao

Tổ chức chương trình nghệ thuật Giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ nhất tại tỉnh Kon Tum; tổ chức các hoạt động văn hóa, du lịch, tăng cường trực, thuyết minh phục vụ Nhân dân, khách tham quan phòng trưng bày Bảo tàng tỉnh và Di tích lịch sử Ngục Kon Tum; Tổ chức Chương trình Sắc Xuân - Xuân Giáp Thìn 2024..., tổ chức 05 điểm bắn pháo hoa từ nguồn xã hội hóa trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, đảm bảo tuyệt đối an toàn; tổ chức thành công sự kiện “Đăk Hà ngày mùa”, trong đó có chương trình ca nhạc thời trang quy tụ hơn 300 ca sĩ, diễn viên, người mẫu trình diễn.

Tổ chức Giải chạy Marathon “Măng Đen - Chào năm mới 2024” với chủ đề “Khám phá Măng Đen Khuyến khích không giày 2024”, Cuộc đua chính thức diễn ra sáng 07/01/2024, với 03 nội dung thi đấu gồm 22 km, 12 km, 6 km; tổ chức Hội khỏe Phù Đổng tỉnh Kon Tum lần thứ IX năm 2024 với chủ đề "Tuổi trẻ học đường Kon Tum Khát vọng - Vươn tầm và Hội nhập"; tổ chức lễ phát động tháng hoạt động thể dục, thể thao cho mọi người và Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân tỉnh Kon Tum năm 2024. Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, không phát sinh các vấn đề nổi cộm về môi trường. Các lực lượng chức năng đã đảm bảo tốt trật tự an toàn giao thông trong dịp Tết Nguyên đán và Lễ hội Xuân năm 2024.

c) Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương

- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 19 vụ (tăng 01 vụ so với tháng trước)[8]. Hậu quả: 02 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 1.9 tỷ đồng.

- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 03 vụ (không tăng, giảm so với tháng trước), gồm: Tham ô tài sản 01 vụ; Buôn bán hàng cấm 01 vụ; Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự 01 vụ. (Địa bàn: Sa Thầy 02 vụ; TP Kon Tum 01 vụ).

- Phạm tội về ma tuý: Phát hiện 13 vụ (giảm 04 vụ so với tháng trước)[9], cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 10 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; Tàng trữ+Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 414,812g Heroin; 59,447g ma túy tổng hợp.

- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 13 vụ TNGT[10], làm 13 người chết, 07 người bị thương (so với tháng trước giảm 02 vụ, tăng 02 người chết, giảm 03 người bị thương). Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 184, 5 triệu đồng.

- Tình hình cháy, nổ: Xảy ra 02 vụ cháy[11] (so với tháng trước giảm 08 vụ) tại TP Kon Tum. Không gây thiệt hại về người; thiệt hại về tài sản không đáng kể.

Tình hình sự cố, tai nạn: Xảy ra 02 vụ (tăng 01 vụ so với tháng trước). Kết quả: Tìm được 01 thi thể nạn nhân.

- Phạm tội về môi trường: Phát hiện 02 vụ (tăng 02 vụ so với tháng trựớc), gồm: Hủy hoại rừng 01 vụ; Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm 01 vụ  (Địa bàn: Đăk Glei 01 vụ; Kon Plông 01 vụ).

 


[1] Nghị quyết số 23-NQ/TU ngày 05 tháng 12 năm 2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, khóa XVI; Nghị quyết số 61/NQ-HĐND ngày 09 tháng 12 năm 2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh.

 

[2] Nguồn: Báo cáo Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum

([3]) Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Chỉ thị tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đơn vị, địa phương trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2024 (Chỉ thị số 05/CT-UBND ngày 22-01-2024) và tổ chức lễ ra quân đầu năm xây dựng nông thôn mới trên địa bàn toàn tỉnh.

[4] số liệu từ Sở Lao động-Thương binh và Xã hội.

[5] số liệu từ Trung tâm dịch vụ việc làm Kon Tum.

[6] Cán bộ Tiền khởi nghĩa; Mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ trang; Thương binh, bệnh binh, Người có công giúp đỡ cách mạng, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; thân nhân hưởng trợ cấp tuất 02 liệt sỹ trở lên; thân nhân liệt sỹ hưởng trợ cấp định suất nuôi dưỡng.

[7]  Trong đó: Có 4.759 suất quà của Chủ tịch nước với kinh phí 1.440.600.000 đồng; 100 suất quà của tỉnh trị giá 1.500.000 đồng/suất; 220 suất quà của các tổ chức, cá nhân khác với kinh phí 86.000.000 đồng.

[8] Giết người 01 vụ; Cố ý gây thương tích 01 vụ; Trộm cắp tài sản 08 vụ; Hủy hoại tài sản 02 vụ; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 03 vụ; Đánh bạc 02 vụ; Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng 01 vụ; Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức 01 vụ. Địa bàn: TP Kon Tum 09 vụ; Đăk Hà 03 vụ; Sa Thầy 02 vụ; Kon Plông 02 vụ; các huyện Kon Rẩy, Đăk Tô và Tu Mơ Rông mỗi nơi 01 vụ.

[9]  Địa bàn: TP Kon Tum 08 vụ; các huyện Ngọc Hồi, Đăk Hà, Đak Glei, Kon Rẩy, Ia H’Drai mỗi nơi 01 vụ.

[10]  Gồm: 02 vụ ít nghiêm trọng, 08 vụ nghiêm trọng, 03 vụ rất nghiêm trọng. Địa bàn: Kon Rẫy 04 vụ; Đăk Tô 04 vụ; Đăk Glei 02 vụ; TP Kon Tum, Sa Thầy, Kon Plông mỗi nơi 01 vụ

[11]  Trong đó: Cháy thảm thực vật 01 vụ; cháy dây điện 01 vụ.

Xem và tải về:   Tải về

Cục Thống kê 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC