• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Chủ Nhật, 22/12/2024 08:54
Thông tin kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum tháng 11 năm 2024
Cập nhật: Thứ Ba, 03/12/2024 08:06

 

Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh Kon Tum tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ... Tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được kiểm soát tốt; các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời; các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch thường xuyên được tổ chức. Đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Sơ bộ đánh giá kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội tháng Mười một và 11 tháng trên địa bàn tỉnh như sau:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong tháng 11 năm 2024, hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung thu hoạch cây trồng Vụ mùa; các ngành chức năng thường xuyên triển khai các công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng mới và chăm sóc rừng.

  1. Nông nghiệp

Cây hàng năm

Ước tính đến ngày 20/11/2024, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ mùa 2024 tỉnh Kon Tum là: 66.190 ha, tăng 0,62% (+409 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể DTGT một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:

- Cây lúa DTGT: 15.171 ha, giảm 1,7% (-265,9 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây lúa ruộng: 12.728 ha, tăng 0,97%; Cây lúa rẫy: 2.443 ha, giảm 13,72%. Diện tích cây lúa rẫy giảm chủ yếu ở huyện Đắk Glei, Tu Mơ Rông là do năng suất và hiệu quả kinh tế không cao nên người dân chuyển sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn như cây dược liệu, cây ăn quả…

- Cây ngô DTGT: 3.668 ha, giảm 13,1% (-553,3 ha). Diện tích gieo trồng giảm chủ yếu ở Thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông, do người dân chuyển đổi sang trồng cây khác như cây mía, sắn.

- Cây sắn DTGT: 40.022 ha, tăng 1,9%  (+738 ha).

- Cây mía gieo trồng được 1.521 ha, tăng 24,7% (+ 301,5 ha). Diện tích mía tăng là do nhà máy đường kết hợp với người dân khôi phục lại diện tích mía đã bỏ trống từ các năm trước, bên cạnh đó thực hiện theo kế hoạch của UBND tỉnh phát triển vùng nguyên liệu mía đến hết năm 2024 là 2.000 ha nên các tổ chức, cá nhân và nhà máy đường đã ký kết hợp đồng mở rộng DTGT mía.

- Rau các loại DTGT: 1.811 ha, tăng 11,2% (+ 182,8 ha). Tập trung chủ yếu ở các vùng chuyên canh rau như: Thành phố Kon Tum, huyện Kon Plông, huyện Đắk Hà do nhu cầu thị trường tăng nên người dân và doanh nghiệp mở rộng DTGT.

- Đậu các loại DTGT: 360 ha, tăng 1,6% (+5,5 ha).

- Hoa các loại DTGT: 88 ha, giảm 23,5% (- 27 ha). Diện tích giảm là do năm trước người dân đầu tư, chăm sóc nhiều nhưng lợi nhuận không cao nên năm nay chuyển qua trồng các loại cây khác như rau các loại.

- Khoai lang DTGT: 728 ha, tăng 15,7% (+ 98,6 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở huyện Đắk Hà do người dân tăng diện tích trồng xen trên đất tái canh.

Nhìn chung, từ đầu vụ Mùa đến nay, điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi từ gieo sạ đến thu hoạch không gặp mưa lớn. Các loại sâu bệnh được phòng trừ kịp thời nên cây trồng phát triển tốt, đảm bảo năng suất mùa vụ.

Chăn nuôi

Ngành chăn nuôi tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh trên động vật, quản lý chặt chẽ tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, tổ chức  tiêm vắc-xin phòng bệnh cho động vật, đặc biệt là bệnh nguy hiểm trên đàn vật nuôi, như: cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục.... nên trong tháng không xảy ra dịch bệnh trên đàn vật nuôi.

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính đến thời điểm 30/11/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

- Tổng đàn trâu 24.882 con, tăng 3,3% (+792 con). Số con xuất chuồng là 2.845 con, tăng 1,9% (+52 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 737 tấn, tăng 1,8% (+13 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn bò 97.014 con, tăng 14,1% (+11.982 con). Số lượng đàn bò tăng là do nhiều hộ dân được hỗ trợ giống từ các dự án và chương trình mục tiêu quốc gia nên số lượng đàn bò tăng cao ở một số huyện như Đăk Tô, Sa Thầy, Ia H’Drai. Số con xuất chuồng là 31.573 con, tăng 2,3% (+724 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 5.252 tấn, tăng 2,4% (+122 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn lợn 206.757 con, tăng 22,9% (+38.557 con). Đàn lợn tăng là do trong thời gian qua giá lợn hơi ổn định, nhu cầu thịt lợn tăng, việc chăn nuôi lợn mang lại hiệu quả kinh tế cao, người dân đầu tư nuôi lợn nhiều và hiện nay mô hình nuôi gia công với chi phí thấp, nên một số doanh nghiệp, trang trại và hộ dân đang mở rộng chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, do Công ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P Việt Nam – Chi Nhánh NM 2 Tại Bình Định đầu tư nuôi lợn thịt tại xã Rờ Kơi, huyện Sa Thầy nên làm cho tổng đàn lợn trên địa bàn tỉnh tăng cao. Số con xuất chuồng là 288.174 con, tăng 4,2% (+11.649 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 22.221 tấn, tăng 4,6% (+971 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Tổng đàn gia cầm 2.067,6 nghìn con, tăng 4,8% (+95.600 con). Trong đó: đàn gà 1.820.400 con, tăng 4,7% (+82.400 con). Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 5.784,5 tấn, tăng 4,8% (+263,5 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 5.124 tấn, tăng 4,8% (+233 tấn). Tổng đàn gia cầm tăng là do hiện nay chăn nuôi gia cầm đang đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chăn nuôi các loại con khác do thời gian thu sản phẩm nhanh, giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ đã đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi, chủ động phòng trừ dịch bệnh kịp thời, tạo thu nhập ổn định cho người chăn nuôi sản xuất. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đang phát triển thêm nhiều cơ sở chăn nuôi gà với quy mô lớn.    

b) Lâm nghiệp

Trong tháng 11 năm 2024, sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu thực  hiện khai thác gỗ và chăm sóc rừng trồng. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân đã góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.

Tính đến 20/11/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 6,67 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Ước tính đến thời điểm 30/11/2024, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh là 3.267 ha, giảm 31,3% (-1.490 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng mới giảm là do kế hoạch trồng rừng mới của tỉnh năm nay giảm so với năm trước.

Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 30/11/2024, trên địa bàn tỉnh sản lượng khai thác gỗ là 149.140 m3, tăng 2,2% (+3.210 m3); sản lượng củi là 275.798 ster, tăng 2,1% (+ 5.673 ster) so với cùng kỳ năm trước; Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trên địa bàn tỉnh đạt 3.400 nghìn cây.

c) Thuỷ sản

Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.

- Ước tính đến 30/11/2024, diện tích nuôi trồng thủy sản là 1.018 ha, tăng 6,6% (+63 ha) so với cùng kỳ năm trước.

- Ước sản lượng thủy sản 11 tháng năm 2024 tỉnh Kon Tum đạt 7.315 tấn, tăng 5,8% (+386 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 2.070 tấn chiếm 28,3%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 5.245 tấn chiếm 71,7%.

+ Sản phẩm thủy sản khai thác: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 2.070 tấn, tăng 4,7% (+93 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản khai thác tăng chủ yếu là do số lượng cá khai thác tại các đập, hồ chứa, sông … tăng lên, bên cạnh đó các đơn vị đấu thầu các đập, hồ thuỷ điện, thuỷ lợi trên địa bàn đã thả giống thuỷ sản nhằm tăng nguồn lợi thuỷ sản để khai thác.

+ Sản phẩm thủy sản nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 5.245 tấn, tăng 5,9% (+293 tấn) so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, tăng 6,60%, diện tích nuôi trồng tăng do các đơn vị khoanh nuôi tại các hồ, đập thuỷ điện, thuỷ lợi

2. Sản xuất công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 11 và 11 tháng của năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước, xu thế các tháng cuối năm ổn định và tăng cao hơn đầu năm, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn chịu nhiều tác động bởi khó khăn của tình tình kinh tế trong và ngoài nước song các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn duy trì hoạt động ổn định, một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất, sản xuất các sản phẩm từ cao su, sản xuất bàn, ghế... do nguồn nguyên liệu đảm bảo và tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn định; một số doanh nghiệp chú trọng đầu tư mở rộng vùng nguyên liệu nên chủ động hơn trong sản xuất. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù ảnh hưởng bởi tình hình nắng hạn kéo dài trong các tháng đầu năm nhưng vẫn duy trì hoạt động ổn định, đảm bảo nguồn điện cho sản xuất, sinh hoạt trong tỉnh cũng như điều tiết chung của ngành điện. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có mức tăng trưởng tương đối cao, một phần do nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt tăng cao bởi thời tiết nắng nóng, một phần các đơn vị cung cấp nước đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống cung cấp nước đến các khu dân cư, tăng lượng khách hàng sử dụng nước sạch; bên cạnh đó các đơn vị thu gom, xử lý rác thải luôn mở rộng địa bàn thu gom, xử lý rác, tăng năng lực thu gom, xử lý rác. Tính chung 11 tháng năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 10,57% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11 năm 2024 ước tính tăng 11,84% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng cao nhất ở ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải (tăng 19,45%), do nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao, hệ thống cung cấp nước được đầu tư nâng cấp và mở rộng hơn, tăng số lượng khách hàng sử dụng nước sạch; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom, xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy. Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 13,03%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang tập trung thi công để đảm bảo kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng trong và ngoài tỉnh. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,12%, trong đó tăng cao ở một số ngành như chế biến gỗ (do nguồn nguyên liệu gỗ cây cao su hết chu kỳ cho sản phẩm được khai thác lấy gỗ); sản xuất các sản phẩm từ cao su (mủ cao su khai thác trên địa bàn); sản xuất cấu kiện kim loại... đều do nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định... . Ngành sản xuất phân phối điện tăng tăng 10,95% do điều tiết hoạt động chung của ngành điện. Tính chung 11 tháng năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 10,57% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,84%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,96%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,93%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,61%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 11 tháng năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 12,84%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,63%; Sản xuất trang phục tăng 9,52%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 17,69%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 20,42%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 9,31%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 11,19%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 13,15%. Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 10,95%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 14,25%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,08%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,93%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 11,44%; Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu tăng 17,29%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong 11 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước: Đá xây dựng khác đạt 475.582 m3 tăng 12,44%; Tinh bột sắn đạt 253.424 tấn tăng 6,84%; Đường RE đạt 10.271 tấn, tăng 44,01%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1.687 nghìn cái, tăng 9,46%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 36.425 m3, tăng 20,42%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 222,6 triệu trang, tăng 9,31%; Cồn béo công nghiệp đạt 9.924 tấn, tăng 10,87%; Phân vi sinh đạt 1.168 tấn, tăng 14,73%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.952 tấn, tăng 13,15%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 203.800 nghìn viên, tăng 8,14%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 377 nghìn viên, tăng 15,03%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 30.239 tấn, tăng 15,51%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 269.952 chiếc, tăng 7,11%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 124.988 chiếc, tăng 9,77%; Điện sản xuất đạt 3.226 triệu Kwh, tăng 9,32%; Nước uống được đạt 3.882 nghìn m3, tăng 11,44%...

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 11/2024 tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 2,12% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 2,12% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 2,16%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 2,10%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 8,33%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,16%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,19%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 13,04% so với cùng kỳ năm trước.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

Trong tháng 11 năm 2024 (tính đến ngày 20/11/2024) toàn tỉnh có 9 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 55 tỷ đồng, không có doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 02 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 04 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; 01 doanh nghiệp đã giải thể.

Tính chung 11 tháng năm 2024 (tính đến ngày 20/11/2024) toàn tỉnh có 270 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 4,25% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 2.027 tỷ đồng, giảm 27,14% so với cùng kỳ năm trước và số lao động đăng ký 1.656 lao động. Có 46 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 32,35% so với cùng kỳ năm trước; 185 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 56 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; 44 doanh nghiệp đã giải thể.

4. Đầu tư

Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tháng 11/2024 tiếp tục được các Sở, ngành và địa phương nỗ lực đẩy mạnh thực hiện triển khai, giải ngân vốn đầu tư công, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đặc biệt là các dự án chuyển tiếp. Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Tính chung 11 tháng năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt 3.152.452 triệu đồng, tăng 4,91% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 11 năm 2024 là 401.393 triệu đồng, tăng 4,30% so với cùng kỳ năm trước, Chia ra: Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 225.471 triệu đồng, chiếm 56,17% trong tổng số nguồn vốn; Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 175.922 triệu đồng, chiếm 43,83% trong tổng số nguồn vốn.

Tính chung 11 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn đạt là 3.152.452 triệu đồng, tăng 4,91% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước, Chia ra:

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 1.963.326 triệu đồng, chiếm 62,28% trong tổng số nguồn vốn, tăng 4,82% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh là 1.118.904 triệu đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 739.332 triệu đồng; nguồn vốn ODA 31.813 Triệu đồng;  nguồn vốn Xổ số kiến thiết là 73.277 triệu đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 1.189.126 triệu đồng, chiếm 37,72% trong tổng số nguồn vốn, tăng 5,07% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện là 478.499 triệu đồng; nguồn vốn hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 710.677 triệu đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp xã không phát sinh.

Nhìn chung trong 11 tháng năm 2024 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2023 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2024 đang được các đơn vị triển khai thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối Tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra Biên giới xã Mo Rai Huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; Kè chống lũ lụt, sạt lở các làng đồng bào DTTS dọc sông Đăk Bla trên địa bàn TP Kon Tum (tuyến bờ bắc), Hệ thống thoát nước, vỉa hè các tuyến đường nội thành, thành phố Kon Tum…

5. Hoạt động ngân hàng[2]

- Hoạt động huy động vốn: Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm trong năm có mức tăng trưởng khá thấp. Nguyên nhân, do nền kinh tế địa phương còn nhiều khó khăn, dân cư còn nghèo nên nguồn tiền tích lũy không cao. Bên cạnh đó, lãi suất huy động trong năm tương đối thấp so với các năm trước nên người dân có xu hướng đầu tư sang các kênh khác.

Đến ngày 31/10/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn đạt 22.675 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,9% so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.750 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,6% tổng nguồn vốn huy động, tăng 6,9% (+114 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

- Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn.

Đến ngày 31/10/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn đạt 48.036 tỷ đồng, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,3% so với cuối năm 2023. Trong đó: Dư nợ ngắn hạn đạt 31.076 tỷ đồng, chiếm 64,65% tổng dư nợ, tăng 8,5% so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn đạt 16.960 tỷ đồng, chiếm 35,35% tổng dư nợ, giảm 5,1%  so với đầu năm.

6. Thương mại, dịch vụ

a) Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tháng 11 và 11 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định và đời sống Nhân dân ổn định so với cùng kỳ năm trước. Nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trên địa bàn thường tăng vào những tháng cuối năm góp phần tăng trưởng của ngành dịch vụ. Các doanh nghiệp và hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mãi tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Các hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch, nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch sinh động, hấp dẫn mang  nhiều sắc thái. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2024 ước tăng 0,77% so với tháng trước và tăng 17,82% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 14,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 14,03%.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 11 năm 2024 đạt 3.373,33 tỷ đồng, tăng 0,77% so với tháng trước và tăng 17,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.834,61 tỷ đồng, chiếm 84,03% trong tổng số, tăng 0,74% so với tháng trước và tăng 17,45% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 342,24 tỷ đồng, chiếm 10,15% trong tổng số, tăng 0,98% so với tháng trước và tăng 20,43% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 196,48 tỷ đồng, chiếm 5,82% trong tổng số, tăng 0,94% so với tháng trước và tăng 18,81% so với cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định so với tháng trước. Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tháng 11 năm 2024 tăng so với tháng trước là do tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn tháng trước về mặt thời tiết, hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình khuyến mãi, nhiều sản phẩm với giá hấp dẫn đã kích cầu tiêu dùng trong dân cư.

- Tính chung 11 tháng năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 35.718,59 tỷ đồng, tăng 14,49% so với cùng kỳ năm trước.

+ Doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng năm 2024 ước đạt 29.828,55  tỷ đồng, chiếm 83,51% trong tổng số, tăng 14,03% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 13,59%; Hàng may mặc, tăng 14,36%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 12,03%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 11,26%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 16,38%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 12,18%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 18,40%; Xăng, dầu các loại, tăng 11,54%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 20,81%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 23,20%; Hàng hoá khác, tăng 10,24%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 14,75%.

+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 11 tháng năm 2024 ước đạt 3.597,39 tỷ đồng, chiếm 10,05% trong tổng số và tăng 15,58% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 235,71 tỷ đồng, tăng 26,70%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.358,21 tỷ đồng, tăng 14,86%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 3,47 tỷ đồng, tăng 39,71% so với cùng kỳ năm trước.

+ Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng năm 2024 ước đạt 2.292,65 tỷ đồng, chiếm 6,56% trong tổng số, tăng 19,03% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao như: dịch vụ kinh doanh bất động sản, tăng 9,08%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 21,36%; dịch vụ giáo dục và đào tạo, tăng 7,38%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tăng 18,38%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, tăng 20,59%; dịch vụ khác, tăng 19,70%...

b) Hoạt động vận tải, kho bãi

Tình hình giao thông, vận tải trên địa bàn tỉnh trong tháng 11 duy trì được sự tăng trưởng và ổn định hơn so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, nguyên nhân là do nhu cầu đi lại của người dân tăng nhất là nhu cầu đi khám chữa bệnh ở ngoài tỉnh trong tháng chuyển mùa. Hoạt động vận chuyển hàng hóa vẫn được duy trì ổn định và tăng nhẹ so với tháng trước, nguyên nhân một là do một số sản phẩm nông nghiệp đang mùa thu hoạch như cao su, lúa, sắn, … nên hoạt động vận tải phục vụ ngành nông nghiệp tăng, mặt khác đây là tháng bắt đầu mùa khô nên hoạt động vận chuyển phục vụ ngành xây dựng tăng. Tính chung 11 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 14,55% và luân chuyển tăng 14,54% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 10,95% và luân chuyển tăng 12,12%.

Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 11 năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 11 năm 2024 đạt 279,41 tỷ  đồng, tăng 2,68% so với tháng trước và tăng 19,29% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 79,99 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 1,85%), so với cùng kỳ năm trước tăng 15,8%; Vận chuyển ước đạt 1.117 nghìn lượt khách, tăng 13,48%; Luân chuyển ước đạt 149.973 nghìn lượt khách.km, tăng 14,55%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 180,28 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 3,17%), so với cùng kỳ năm trước tăng 20,99%; Vận chuyển ước đạt 1.771 nghìn tấn, tăng 15,86%; Luân chuyển ước đạt 92.162 nghìn tấn.km, tăng 17,55%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 2,05 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,54%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 17,09 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 19,26%.

Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, nguyên nhân là do nhu cầu đi lại của người dân tăng nhất là nhu cầu đi lại của người lao động thời vụ đến địa phương thu hoạch cà phê.

Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với tháng trước, nguyên nhân do một số sản phẩm nông nghiệp đang mùa thu hoạch như: cao su, cà phê, lúa Vụ mùa, sắn, … nên hoạt động vận tải phục vụ ngành nông nghiệp tăng, mặt khác các đơn vị kinh doanh tăng cường đầu tư trang bị các dòng xe có tải trọng lớn để vận chuyển hàng hóa đường dài.

Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính 11 tháng năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 11 tháng năm 2024 đạt 2.820,42 tỷ  đồng, tăng 15,59% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 811,11 tỷ đồng, tăng 20,43%; Vận chuyển ước đạt 11.572 nghìn lượt khách, tăng 14,55%; Luân chuyển ước đạt 1.521.487 nghìn lượt khách.km, tăng 14,54%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.812,18 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,64%; Vận chuyển ước đạt 18.264 nghìn tấn, tăng 10,95%; Luân chuyển ước đạt 932.341 nghìn tấn.km, tăng 12,12%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 21,04 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 19,45%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 176,09 tỷ đồng, tăng  14,13%.

7. Giá cả thị trường   

a) Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Trong tháng 11 năm 2024, giá cả thị trường ở địa phương vẫn ổn định, không có biến động lớn về giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và dịch vụ, không có hiện tượng ghim hàng tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2024 tăng 0,91% so với tháng trước, tăng 3,87% so với cùng kỳ năm trước; tăng 3,68% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 11 tháng  năm 2024, CPI tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 tăng 0,91% (khu vực thành thị tăng 0,92%; khu vực nông thôn tăng 0,9%). Trong mức tăng 0,91% của CPI  tháng 11 so với tháng trước, có 09 nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,16%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,16%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,31%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,42%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,87%; nhóm giao thông tăng 0,14%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,16%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,42%. Có 01 nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,6% và 01 nhóm không có biến động giá là nhóm giáo dục.

Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

Chín nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+1,16%)

+ Chỉ số nhóm lương thực tăng 1,68%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 1,5% (giá gạo tẻ thường tăng 1,55%, giá gạo tẻ ngon tăng 1,7%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng; nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 0,18%, trong đó giá bột mì tăng 3,55%, giá sắn tăng 0,7%, nguyên nhân là do sản phẩm trái vụ và nhu cầu tiêu dùng tăng.

+ Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 1,05%, chủ yếu là do nhóm thịt gia súc tăng 0,73%, trong đó thịt lợn tăng 1,06%, nội tạng động vật tăng 0,91%; nhóm thịt gia cầm tăng 1,03%, trong đó giá thịt gà tăng 1,15%, giá thịt gia cầm khác tăng 0,52%. Nhóm dầu mỡ và chất béo tăng 0,58%, trong đó mỡ động vật tăng 1,96% là do tăng theo giá thịt lợn. Nhóm thủy sản tươi sống tăng 1,18% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,62%, nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 2,9%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung giảm nên làm cho giá tăng; Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 2,09%, trong đó giá bắp cải tăng 4,55%, giá su hào tăng 4,4%, giá rau muống tăng 5,52%, giá đỗ quả tươi tăng 2,75%, giá rau tươi khác tăng 5,38%, nguyên nhân là do các sản phẩm trái vụ. Ở chiều ngược lại, giá cà chua giảm 2,17%, giá măng tươi giảm 5,21%, nguyên nhân là do các sản phẩm đang mùa thu hoạch. Nhóm quả tươi, chế biến tăng 1,48%, trong đó giá xoài tăng 2,65%, giá quả có múi tăng 1,85%, giá chuối tăng 0,96%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng và lượng cung giảm; Nhóm đường mật tăng 2,03% là do giá mật ong tăng 3,85%; nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,81% là do giá sữa tươi tăng 1,18%, giá sữa đặc tăng 1,62%; nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 1,98%, trong đó giá cà phê bột tăng 4,46%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng.

+ Chỉ số nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 1,16% là do giá ăn ngoài gia đình tăng 1,32%, giá uống ngoài gia đình tăng 0,32%, nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng.

  • Đồ uống và thuốc lá (+1,16%)

 Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,16%, tăng chủ yếu là do giá rượu các loại tăng 1,32%, trong đó rượu mạnh tăng 2,47%, nguyên nhân chủ yếu là rượu trắng địa phương tăng, do ảnh hưởng giá gạo tăng; giá thuốc các loại tăng 1,72%; giá bia các loại tăng 0,54% là do nhu cầu tiêu dùng tăng.

 - May mặc, mũ nón và giày dép (+1,31%)

Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,31%, là do nhóm quần áo may sẵn tăng 1,59%, trong đó giá quần áo cho nữ (13 tuổi trở lên) tăng 2,55%, giá quần áo cho trẻ em gái  tăng 1,94%, giá quần áo cho trẻ sơ sinh tăng 4,64%; nhóm may mặc khác tăng 1,22%, trong đó giá khăn mặt, khăn quàng tăng 1,66%; giá mũ, nón tăng 1,23%. Nguyên nhân chính là do nhu cầu mua sắm chuẩn bị cho Lễ Giáng sinh tăng nên giá tăng theo theo quy luật cung cầu.

  • Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+1,42%)

 Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,42%,  nguyên nhân chính là do nhóm nhà ở thuê tăng 0,48%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 0,59%; giá gas tăng 2,51%, tăng 11200 đồng/12kg từ ngày 01/11/2024; giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước tăng 3,49%; giá điện sinh hoạt tăng 4,32%, nguyên nhân là do giá điện sinh hoạt được điều chỉnh tăng theo Quyết định 2699/QĐ-BCT, ngày 11/10/2024 của Bộ Công Thương về quy định giá bán điện mới. Ở chiều ngược lại, giá nước sinh hoạt giảm 2,13% là do nhu cầu tiêu dùng nước giảm nên giá bình quân giảm.

- Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,57%)

Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%, tăng chủ yếu là do giá giường, tủ, bàn ghế tăng 0,57%; giá các mặt hàng thủy tinh, sành, sứ tăng 1,14%, trong đó giá bát, đĩa tăng 1,64%; giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,4%, trong đó giá kem đánh răng tăng 2,38%; giá vật phẩm tiêu dùng khác tăng 1,19%, trong đó giấy ăn tăng 5,55%; giá sửa chữa thiết bị gia đình tăng 3,23%, trong đó giá sửa chữa máy giặt tăng 5,79%; giá sửa chữa thiết bị có động cơ tăng 3,36%.

- Thuốc và dịch vụ y tế (+0,87%)

 Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,87%, là do giá thuốc các loại tăng 0,96%, trong đó giá thuốc đường tiêu hóa tăng 4,28%, giá thuốc chống dị ứng tăng 2,31%, giá thuốc tim mạch tăng 1,04%; giá dụng cụ y tế tăng 1,88%; giá dịch vụ y tế tăng 0,82%, trong đó khám chữa bệnh ngoại trú tăng 1,83% là do cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân tăng giá một số dịch vụ y tế.

- Giao thông (+0,14%)

Chỉ số nhóm giao thông tăng 0,14%, nguyên nhân chủ yếu là do giá phụ tùng tăng 1,44%, trong đó phụ tùng ô tô tăng 1,72%, phụ tùng xe máy tăng 1,76%; bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 6,04%, trong đó sửa chữa xe máy tăng 6,19%. Ở chiều ngược lại nhóm nhiên liệu giảm 0,21%, là do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước giá xăng giảm 0,28%, riêng giá dầu diezel tăng 2,87%; giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 0,98%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 11,04%.

  • Văn hóa, giải trí và du lịch (+0,16%)

 Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,16% là do nhóm thiết bị dụng cụ thể thao tăng 2,61%, trong đó giá các mặt hàng dụng cụ thể dục, thể thao tăng 3,26%; nhóm đồ chơi tăng 3,87%, trong đó đồ chơi trẻ em tăng 4,3%; giá hoa cây cảnh tăng 1,39%, trong đó giá cây, hoa cảnh tăng 2,83%, nguyên nhân trong tháng có Ngày nhà giáo Việt Nam 20-11 nên tác động đến giá một số loại hoa tăng.

  • Hàng hóa và dịch vụ khác (+1,42%)

Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,42%, tăng chủ yếu là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 2,15%, trong đó giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 1,56%, giá đồ trang sức tăng 4,22% là do tăng theo giá vàng.

Một nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm:

Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,6%, là do nhóm thiết bị điện thoại giảm 1,75%, trong đó giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 1,58%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động thế hệ cũ.

Một nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá không thay đổi: nhóm Giáo dục.

So với tháng 11/2023, CPI tháng 11/2024 tăng 3,87%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 08 nhóm tăng giá và 03 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,03%, tăng chủ yếu là do nhóm lương thực tăng 8,3%, trong đó giá gạo tăng 10,83% là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng, nhóm thực phẩm tăng 3,79%, ăn uống ngoài gia đình tăng 2,32%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,55%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 5,47%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 7,59%, tăng chủ yếu là do giá tiền thuê nhà ở tăng 7,92%, giá gas tăng 5,51%, điện sinh hoạt tăng 9,65%, riêng giá dầu hỏa giảm 12,6%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,3%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 11,17%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng 12,73%; nhóm giáo dục tăng 4,78% là do học phí đại học và học phí mầm non tư thục tăng; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 9,16%, chủ yếu là do giá bảo hiểm y tế tăng 30%.

Các nhóm giảm là nhóm giao thông giảm 3,85% là do giá xăng giảm 12,56%, giá dầu diesel giảm 12,66%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,41%, giảm chủ yếu là do giá mặt hàng điện thoại di động giảm 14,81%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,54%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2024 tăng 2,62% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

b) Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh

- Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 11/2024 tăng 3,14% so với tháng trước; tăng 19,1% so với tháng 12/2023; tăng 24,43% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 20,85%.

- Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 11/2024 giao dịch bình quân quanh mức 25.476 VND/USD, tăng 1,97% so với tháng trước; tăng 4,06% so với tháng 12/2023; tăng 3,41% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 4,75%.

8. Một số tình hình xã hội

a) Tình hình đời sống dân cư

Trong tháng, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả tích cực, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ. Các chế độ, chính sách về an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; cơ sở vật chất giáo dục được quan tâm, đầu tư; tình hình dịch bệnh tương đối ổn định, kiểm soát tốt; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Thời điểm cuối năm, giá các mặt hàng nông sản chủ lực trên địa bàn như cao su, cây ăn quả tăng cao, đặc biệt giá cà phê tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ những năm trước. Người dân rất phấn khởi khi cà phê vừa được mùa, vừa được giá, hơn nữa vào thời điểm chính vụ thu hoạch, thời tiết ít mưa nên thuận lợi cho việc thu hoạch, chế biến và bảo quản. Bước vào mùa thu hoạch cà phê niên vụ năm 2024, các địa phương đã chủ động xây dựng phương án huy động nhân lực thu hái cà phê để khắc phục tình trạng khan hiếm nhân công xảy ra như những năm trước. Các địa phương đã rà soát, lập danh sách lao động tham gia thu hoạch cà phê và thành lập các Tổ hợp tác lao động, phối hợp với các đơn vị liên quan ký kết hợp đồng lao động thu hoạch cà phê. Theo đó, chủ động chuyển dịch lao động về các vùng chuyên canh cà phê nhằm tạo việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn, góp phần sử dụng hiệu quả lao động trên địa bàn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, còn có một số hạn chế và khó khăn, thách thức như: Dịch bệnh lở mồm long móng trâu bò, dịch tả lợn Châu Phi vẫn còn xảy ra ở một số địa phương. Tình hình cháy nổ tăng so với cùng kỳ.

b) Lao động, việc làm và giáo dục nghề nghiệp[3]

- Số lao động được giải quyết việc làm trong tháng 11 là 461 lao động. Tổng số lao động được giải quyết việc làm lũy kế từ đầu năm là 6.791/6.500 lao động, đạt 104,5% kế hoạch năm.

- Công tác bảo hiểm xã hội (BHXH): Tổng số người tham gia BHXH là 63.368 người; tỷ lệ bao phủ BHXH so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 20,72%, đạt 103% kế hoạch.

- Công tác bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): Tổng số người tham gia BHTN là 36.023 người; tỷ lệ bao phủ BHTN so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 11,78%, đạt 97,35% kế hoạch.

Tổng số học viên, sinh viên được đào tạo 8.967 người. Trong đó: Trình độ cao đẳng đào tạo cho 675 sinh viên; trình độ trung cấp đào tạo 1.237 học sinh; trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng 2.714 học viên. Đào tạo nghề cho lao động thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2022-2025: Hiện nay đã tiến hành mở lớp đào tạo cho 4.341/4.351 học viên, đạt 99,77% kế hoạch (trong đó nghề nông nghiệp 3.577 lao động, nghề phi nông nghiệp 764 lao động).

c) Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Tình hình dịch bệnh tháng 10 năm 2024

- Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 10 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 9, Đăk Glei 1), giảm 1 ca so với tháng trước và giảm 3 ca so với tháng 10/2023. Luỹ tích đến 31/10/2024, không có tử vong, ghi nhận 41 ca mắc, giảm 84 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 6 ca mắc mới (Tu Mơ Rông 2, Kon Rẫy 4), bằng so với tháng trước và giảm 9 ca so với tháng 10/2024. Luỹ tích đến 31/10/2024, không có tử vong, ghi nhận 123 ca mắc, giảm 21 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 15 ca mắc mới (Tu Mơ Rông 12, Kon Rẫy 3), tăng 5 ca so với tháng trước và tăng 12 ca so với tháng 10/2023. Luỹ tích đến 31/10/2024, không có tử vong, ghi nhận 180 ca mắc, tăng 139 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 37 ổ dịch mới, giảm 3 ổ dịch so với tháng trước và tăng 10 ổ dịch so với tháng 10/2023. Lũy tích đến 31/10/2024, ghi nhận 172 ổ dịch, tăng 38 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, ghi nhận 59 ca mắc mới, giảm 6 ca so với tháng trước và giảm 17 ca so với tháng 10/2023. Luỹ tích đến 31/10/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 400 ca mắc, tăng 21 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Bệnh sởi: Trong tháng, ghi nhận 4 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 1, Đăk Hà 2, Ngọc Hồi 1), tăng 1 ca so với tháng trước và tăng 4 ca so với tháng 10/2023. Lũy tích đến 31/10/2024, không có tử vong, ghi nhận 9 ca mắc (thành phố Kon Tum 3, Đăk Hà 4, Ngọc Hồi 1, Sa Thầy 1), tăng 9 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Bệnh Lao: Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 36 ca mắc mới, tăng 3 ca so với tháng trước và giảm 15 ca so với tháng 10/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 31/10/2024, 01 ca tử vong, ghi nhận 308 ca mắc, giảm 112 ca so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Lao phổi AFB (+): 220; lao phổi AFB (-): 27; lao ngoài phổi: 61. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 31/10/2024: ghi nhận 2.617 ca; trong đó tử vong 27 ca, hoàn thành điều trị 2.339 ca, đang được quản lý điều trị 251 ca.

- Trong 10 tháng năm 2024, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...); Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV); Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID-19); Đậu mùa khỉ; Cúm A(H1N1); Sốt rét; Bệnh do vi rút Zika; Bạch hầu; Dại; Ho gà;...

- Trong tháng số người ghi nhận nhiễm HIV là 2 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật 1, bệnh nhân HIV từ nơi khác chuyển về tiếp tục điều trị 1); Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS: 610 người. Trong đó tử vong 213 (AIDS 200, HIV 13), còn sống 397 (đang quản lý và tiếp cận được 262). Tổng số người nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 306, trong đó còn sống 106; Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 31/10/2024: 214 (9 trẻ em), điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 16.

Về ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 10 xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm với 06 người mắc, trong đó 01 người tử vong , nguyên nhân nghi ngờ do độc tố của Cóc; số ca mắc lẻ tẻ 3 ca, nguyên nhân do ăn uống thực phẩm không bảo đảm vệ sinh.

d) Văn hóa, Thể dục thể thao

Công tác khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống của các dân tộc thiểu số, các di tích lịch sử cách mạng gắn với phát triển du lịch tiếp tục được triển khai[4].

Trên địa bàn tỉnh, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì; Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng Nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng. Công tác xã hội hóa các hoạt động thể dục thể thao được quan tâm.

e) Tình hình bất thường về thiên tai, hỏa hoạn

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh Kon Tum chịu ảnh hưởng của rìa phía Nam áp cao lạnh lục địa được tiếp tục tăng cường xuống phía Nam, sau có cường độ ổn định và suy yếu chậm. Rãnh áp thấp suy yếu và đầy dần lên. Trên cao, áp cao cận nhiệt đới có cường độ ổn định. Theo dự báo của Viện Vật lý Địa cầu từ ngày 29/10/2024 - 05/11/2024 trên địa bàn huyện Kon Plông đã xảy ra hơn 03 trận động đất, trong đó ngày 03/11/2024 trận động lớn nhất có độ lớn 2.7 độ richter xảy ra tại vị trí có tọa độ 14.921 độ vĩ Bắc, 108.203 độ kinh Đông, độ sâu chấn tiêu khoảng 8.1 km. Động đất xảy ra tại khu vực huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Cấp độ rủi ro thiên tai cấp 0.

f) Tình hình vi phạm môi trường

- Trong tháng, phát hiện 01 vụ vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm trên địa bàn huyện Ia H'Drai.

g) Tình hình trật tự an toàn xã hội

- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 33 vụ (tăng 01 vụ so với tháng trước). Hậu quả, thiệt hại: 11 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 57 triệu đồng. Địa bàn: TP Kon Tum 25 vụ; Kon Plông 02 vụ; Ngọc Hồi 04 vụ; Đăk Glei 01 vụ; Sa Thầy 01 vụ.

- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 03 vụ (giảm 01 vụ so với tháng trước), cụ thể: Lạm quyền trong khi thi hành công vụ 01 vụ; Tham ô tài sản 01 vụ; Nhận hối lộ 01 vụ. Địa bàn: TP Kon Tum 01 vụ; Đăk Tô 01 vụ; Kon Plông 01 vụ.

- Phạm tội về lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông: Phát hiện 01 vụ sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Kon Tum. Thiệt hại: mất 576 triệu đồng.

- Phạm tội về môi trường: Phát hiện 01 vụ vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn huyện Ngọc Hồi (không tăng, không giảm so với tháng trước).

- Phạm tội về ma túy: Phát hiện 08 vụ (không tăng, không giảm so với tháng trước), cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 06 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 10,538g ma túy tổng họp. Địa bàn: TP Kon Tum 05 vụ; Ngọc Hồi 02 vụ; Tu Mơ Rông 01 vụ.

- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: xảy ra 10 vụ TNGT (03 vụ ít nghiêm trọng, 06 vụ nghiêm trọng, 01 vụ rất nghiêm trọng) làm 08 người chết, 08 người bị thương. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 78 triệu đồng. So với tháng trước liền kề: không tăng giảm số vụ, số người chết, giảm 01 người bị thương. Địa bàn: TP Kon Tum 02 vụ; Kon Rẫy 02 vụ; Đăk Tô 02 vụ; Đăk Hà, Ngọc Hồi, Đãk Glei, Ia H’Drai mỗi nơi 01 vụ.

- Tình hình cháy, nổ: Xảy ra 03 vụ cháy trụ sở làm việc, thiết bị điện, cơ sở sản xuất tại TP Kon Tum (tăng 01 vụ so với tháng trước). Thiệt hại về tài sản khoảng 3 triệu đồng. Nguyên nhân: Do sự cố hệ thống điện 03 vụ ./.

 


[1] Nguồn:  Sở Kế hoạch và Đầu tư

[2] Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum.

[3] Báo cáo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

[4] UBND tỉnh Kon Tum đã ban hành Quyết định số 653/QĐ-UBND ngày 13/11/2024 về việc phê duyệt dự án Hỗ trợ tu bổ, tôn tạo quần thể di tích quốc gia đặc biệt chiến thắng Đắk Tô – Tân Cảnh

Xem và tải về:   Tải về

Cục Thống kê 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC