• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Thứ Năm, 16/05/2024 16:26
Thông tin kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum tháng 4 năm 2024
Cập nhật: Thứ Hai, 29/04/2024 07:55

 

Tình hình kinh tế - xã hội trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ. Với sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, điều hành chủ động, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp, các ngành tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm, tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, trong việc đẩy mạnh thực hiện nghị quyết, quyết định, chương trình hành động triển khai thực hiện của các cấp, các ngành; khắc phục có hiệu quả các hạn chế, khuyết điểm; nhất là các nhiệm vụ, giải pháp đã xác định tại Nghị quyết số 24-NQ/TU ngày 28 tháng 3 năm 2024 Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đến hết quý II năm 2024. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội tháng Tư và 4 tháng đầu năm 2024 ước tính đạt như sau:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong 4 tháng đầu năm 2024, trên địa bàn tỉnh tập trung triển khai và theo  dõi sản xuất cây trồng vụ đông xuân. Tăng cường phòng chống khô hạn, thiếu nước tưới cho cây trồng và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tạo chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Hoạt động chăn nuôi gia cầm tương đối ổn định. Sản xuất lâm nghiệp diễn ra tương đối thuận lợi; công tác quản lý, bảo vệ rừng tiếp tục được quan tâm.

1.1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

Cây hàng năm

Tính đến thời điểm 15/4/2024, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ đông xuân trên địa bàn tỉnh Kon Tum đạt 10.272 ha, tăng 1,39% (+ 140,2 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể diện tích gieo trồng một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:

DTGT lúa ước đạt 7.229 ha, giảm 0,88% (-64,9 ha) .

DTGT ngô ước đạt 763 ha, giảm 6,38% (-51,7 ha). Diện tích giảm do người dân chuyển đổi sang cây trồng khác như mía, cây ăn quả...

DTGT rau các loại ước đạt 1.540 ha, tăng 14,07% (+190,3 ha); đậu các loại ước đạt 142 ha, tăng 31,48% (+34 ha). DTGT rau, đậu các loại tăng là do nhu cầu tiêu thụ rau, củ quả trong mùa nắng nóng ngày càng cao nên người dân mở rộng DTGT.

DTGT khoai lang ước đạt 65 ha, tăng 14,04% (+8,1 ha). Diện tích tăng là do người dân mở rộng diện tích gieo trồng trên đất tái canh cà phê.

Tháng 4 năm nay thời tiết khô hanh, ít mưa, nắng nóng tăng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, ao, hồ giảm. Các công trình hồ, đập thủy lợi cung cấp nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mức nước cũng giảm dần. Vì vậy, các sở, ngành đã kịp thời hướng dẫn các địa phương chú trọng đảm bảo nguồn nước tưới tiêu để không ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, đặc biệt là cây lúa. Bên cạnh đó, thời tiết nắng nóng cũng gây ra một số loài sâu bệnh hại phát triển nhanh chóng, như: bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu,... nhờ sự chỉ đạo kịp thời của ngành Nông nghiệp mà các ổ bệnh được xử lý nhanh chóng.

Cây lâu năm

- Tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn ước tính đến thời điểm 30/4/2024 là 130.482 ha, tăng 6,54% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, một số cây trồng chủ lực của tỉnh (cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả) đang sinh trưởng và phát triển tốt. Đến nay, tổng diện tích cây cà phê đạt 29.846 ha, tăng 2,47%; Diện tích cây cao su đạt 79.091 ha, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng diện tích cây ăn quả là 14.020 ha, tăng 46,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó cây Mắc ca khoảng 3.502 ha, tăng 51,33% so với cùng kỳ năm trước.  Diện tích cây ăn quả tăng cao là do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nhiều nhóm cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế như chuối, sầu riêng, chanh leo, mắc ca, mít… Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường ổn định nên nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung vào những nông sản có giá trị để xuất khẩu như chanh leo, chuối, sầu riêng… đồng thời các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại, do đó nhiều nông dân và doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi từ cây hàng năm hiệu quả không cao sang trồng cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

b) Chăn nuôi

 Tình hình chăn nuôi trên địa bàn ước tính đến thời điểm 30/4/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

Tổng đàn trâu 24.192 con, tăng 1% (+239 con). Số con xuất chuồng là 964 con, tăng 1,5% (+14 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 254,5 tấn, tăng 1,4% (+3,5 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn bò 85.834 con, tăng 1,1% (+914 con). Số con xuất chuồng là 10.771 con, tăng 2,4% (+253 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 1.886 tấn, tăng 2,4% (+44 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn lợn 174.385 con, tăng 9,7% (+15.465 con). Số con xuất chuồng là 91.235 con, tăng 5,3% (+4.620 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 7.219 tấn, tăng 5,4% (+372 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Đàn lợn tăng là do giá cả ổn định nên người dân tăng đàn, mặc khác, trong kỳ đã có nhiều dự án chăn nuôi lợn quy mô lớn bắt đầu hoạt động.

Tổng đàn gia cầm 1.953.400 con, tăng 4,7% (+87.400 con) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà 1.774.000 con, tăng 4,8% (+82.000 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 2.190 tấn, tăng 6,1% (+126,5 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 1.918 tấn, tăng 6,2% (+111,4 tấn).

 Tình hình dịch bệnh trong tháng 4 năm 2024 như sau:

Trong tháng đã xảy ra 02 trường hợp chó dại trên địa bàn xã Sa Bình và xã Ya Xiêr huyện Sa Thầy. Địa phương đã kịp thời triển khai các biện pháp phòng, chống theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, tổ chức lấy mẫu gửi xét nghiệm và tiêu huỷ 40 con chó (02 con chó dại, 38 con chó bị phơi nhiễm).

Các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Lở mồm long móng, Viêm da nổi cục, Tai xanh, Cúm gia cầm, .... không phát sinh. Các bệnh thông thường trên đàn vật nuôi đã được lực lượng chức năng phát hiện và xử lý kịp thời theo quy định.

1.2. Lâm nghiệp

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh thời tiết khô hanh, nắng nóng, nguy cơ xảy ra cháy rừng rất cao, cấp dự báo cháy rừng ở cấp IV, cấp nguy hiểm. Để hạn chế cháy rừng có thể xảy ra, các cơ quan chức năng thường xuyên tổ chức tuần tra canh gác 24/24 tại điểm nóng, những khu vực rừng dễ cháy, tiến hành làm đường ranh cản lửa, phát dọn thực bì..., các lực lượng quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân nâng cao trách nhiệm bảo vệ phòng chống cháy rừng. Sẵn sàng về lực lượng, phương tiện, dụng cụ để tham gia ứng cứu khi có trường hợp cháy rừng xảy ra.

Tính đến ngày 15/4/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 8 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 4,9 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Công tác trồng rừng: Các đơn vị, địa phương đã chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết (cây giống, quỹ đất,…) để triển khai công tác trồng rừng, trồng cây phân tán khi thời tiết thuận lợi. Dự ước đến thời điểm 30/4/2024, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh chưa tiến hành.

Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 30/4/2024, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 41.200 m3, tăng 1,6% (+655 m3) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng củi khai thác ước đạt 86.010 ster, tăng 1,9% (+1642 ster) so với cùng kỳ năm trước.

1.3. Thuỷ sản

Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm. Nhìn chung đến nay hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và đạt được một số kết quả đáng khích lệ.

- Ước tính đến 30/4/2024, diện tích nuôi trồng thủy sản là 955 ha, tăng 13,56%  (+114 ha) so với cùng kỳ năm trước.

- Sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.130 tấn, tăng 7,20% (+143 tấn) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 1.395 tấn, tăng 7,81% (+101 tấn); Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 735 tấn, tăng 6,06% (+42 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng thủy sản trong kỳ tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng, cùng với khai thác đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối tăng.

2. Sản xuất công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá cao so cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất chung toàn ngành công nghiệp tăng 9,31%. Hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng; một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, sản xuất bàn ghế, chế biến gỗ... do năm nay tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn, các doanh nghiệp nhận nhiều đơn hàng, một số doanh nghiệp đang mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao công suất máy móc để đáp ứng sản xuất. Một số ngành như sản xuất đường, tinh bột sắn, chế biến gỗ nguồn cung cấp nguyên liệu tương đối đảm bảo, tình trạng thiếu hụt nguyên liệu không còn xảy ra. Ngành sản xuất, phân phối điện; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 9,31% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 10,91%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,38%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,23%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,94%.

2.1. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 4 năm 2024 ước tính tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng cao nhất ở ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải (tăng 14,69%), tháng 4 đang trong thời gian cao điểm mùa khô, năm nay thời tiết nắng nóng bất thường so các năm nên nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy. Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 12,91%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang tập trung thi công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,93%, trong đó tăng cao ở một số ngành như  chế biến gỗ; sản xuất giường, tủ, bàn ghế; sản xuất cấu kiện kim loại... do nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định... Ngành sản xuất phân phối điện tăng thấp so cùng kỳ (tăng 2,91%) do đang là cao điểm mùa khô, lượng nước trên các hồ chứa bắt đầu giảm nên các nhà máy thủy điện giảm công suất để ổn định sản xuất.

So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 4 ước tính giảm 8,47%. Trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm nhiều nhất (giảm 11,87%), chủ yếu giảm ở ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, nguyên nhân hiện tại đã vào cuối vụ thu hoạch sắn, nguồn cung cấp nguyên liệu giảm nên sản lượng sản phẩm sản xuất của các nhà máy tinh bột sắn giảm mạnh. Ngành sản xuất phân phối điện giảm 7,18% do ngành điện chủ động điều tiết sản lượng điện của các nhà máy thủy điện để ổn định sản xuất trong mùa khô. 2 ngành còn lại gồm khai thác khoáng sản và ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 9,31% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 10,91%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,38%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,23%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,94%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II đều tăng so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 10,91%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,49%; Sản xuất trang phục tăng 8,22%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 3,19%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 19%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 2,84%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 4,08%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 4,95%.Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 3,42%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 5,56%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,48%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,23%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 6,27%.

2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp

Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 4 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 37.441 m3, tăng 13,58%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 20.540 tấn, giảm 0,1%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 16,843 triệu viên, giảm 2,71%; điện sản xuất 210,03 triệu Kwh, tăng 1,84%.       

Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 1.041,86 triệu Kwh tăng 9,30%; Đá xây dựng khác đạt 153.925 m3 tăng 10,91%; Tinh bột sắn đạt 108.666 tấn tăng 4,46%; Đường RE đạt 10.271 tấn, tăng 44,01%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 549,55 ngàn cái, tăng 9,90%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 10.888 m3, tăng 19%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 69,51 triệu trang tăng 2,84%; Cồn béo công nghiệp đạt 3.227 tấn tăng 3,84%; Phân vi sinh đạt 431 tấn tăng 6,42%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 636 tấn, tăng 4,95%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 61,175 triệu viên, tăng 10,60%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 126,88 nghìn viên, tăng 12,71%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 8.370 tấn, tăng 6,56%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 80.644 chiếc, tăng 12,13%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 34.101 chiếc, tăng 20,34%...

2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 4/2024 giảm 0,24% so với tháng trước và tăng 2,30% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước giảm 0,25%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 2,46%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 4,60%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,05%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,33%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 12,24% so với cùng kỳ năm trước.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

Trong tháng 4 năm 2024 (tính đến ngày 20/4/2024) toàn tỉnh có 27 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 109,3 tỷ đồng, tăng 3,85% về số doanh nghiệp và tăng 25,34% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 4 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 5 doanh nghiệp đã giải thể; 16 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 (tính đến ngày 20/4/2024) có 166 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 46,11% kế hoạch và tăng 23,88% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 920,6 tỷ đồng, đạt 23,02% kế hoạch và tăng 76,08% so với cùng kỳ năm trước. Có 29 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 45,28% so với cùng kỳ năm trước; 39 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước; 216 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 71,43% so với cùng kỳ năm trước.

4. Vốn đầu tư

Trong tháng Tư, vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tiếp tục được các Sở, ngành và địa phương nỗ lực đẩy mạnh thực hiện triển khai, giải ngân vốn đầu tư công, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đặc biệt là các dự án chuyển tiếp. Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt là 699,73 tỷ đồng, tăng 6,54% so với cùng kỳ năm trước.

 Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 4 năm 2024 đạt 206,43 tỷ đồng, tăng 13,51% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 155,94 tỷ đồng, chiếm 75,54% trong tổng số nguồn vốn; Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 50,49 tỷ đồng, chiếm 24,46% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... 

 Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn đạt 699,73 tỷ đồng, tăng 6,54% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 538,88 tỷ đồng, chiếm 77,01% trong tổng số nguồn vốn, tăng 4,82% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 294,54 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 219,85 tỷ đồng; nguồn vốn ODA 3,59 tỷ đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết đạt 20,91 tỷ đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 160,84 tỷ đồng, chiếm 22,99% trong tổng số nguồn vốn, tăng 12,71% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện đạt 104,92 tỷ đồng; nguồn vốn hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu  đạt 55,93 tỷ đồng.

Nhìn chung trong 4 tháng đầu năm 2024 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2023 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2024 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối Tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra biên giới xã Mo Ray, huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; Đầu tư XD cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 676 nối huyên Kon Plông tỉnh Kon Tum với huyện Sơn Tây, Sơn Hà - Quảng Ngãi; Hệ thống thoát nước, vỉa hè các tuyến đường nội thành, thành phố Kon Tum…

5. Hoạt động ngân hàng[2]

- Tình hình thực hiện lãi suất: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên đị bàn áp dụng mức lãi suất như sau:

Lãi suất huy động bằng VNĐ: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng : ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 3,0-4,0%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,0-5,0%/năm.

Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 8,0-11,0%/năm.

- Hoạt động huy động vốn: Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn. Đến ngày 30/4/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 23.050 tỷ đồng, tăng 0,1% (+26 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.600 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,9% tổng nguồn vốn huy động, giảm 2,2% (-36 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

- Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn. Đến ngày 30/4/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đạt 46.550 tỷ đồng, tăng 0,1% (+38 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:

Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 28.900 tỷ đồng, chiếm 62,1% tổng dư nợ, tăng 0,9% (+256 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.650 tỷ đồng, chiếm 37,9% tổng dư nợ, giảm 1,2% (-218 tỷ đồng) so với đầu năm.

Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.240 tỷ đồng, chiếm 32,7% tổng dư nợ, tăng 2,1% (+320 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 53 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ, không thay đổi so với đầu năm;  Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 31.253 tỷ đồng, chiếm 67,1% tổng dư nợ, giảm 0,9% (-283 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 4,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.

6. Thương mại, dịch vụ

Tháng Tư tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn so với tháng trước, sức mua hàng hoá tăng nhẹ. Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong 4 tháng đầu năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch … sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3), các hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập thành phố Kon Tum,… hấp dẫn phục vụ du khách dịp Tết, Lễ hội. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 4 năm 2024 tăng 0,94% so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 10,02% so với cùng kỳ năm trước.

6.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 4 năm 2024 đạt 3.145,95 tỷ đồng, tăng 0,94% so với tháng trước và tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước.  Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.645,98 tỷ đồng, chiếm 84,11% trong tổng số, tăng 0,71% so với tháng trước và tăng 10,92% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 313,98 tỷ đồng, chiếm 9,98% trong tổng số, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 185,99 tỷ đồng, chiếm 5,91% trong tổng số, tăng 2,66% so với tháng trước và tăng 18,25% so với cùng kỳ năm trước.

Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 4 năm 2024 tăng so với tháng trước là do tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định, thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và chi tiêu cho đời sống theo đó cũng ổn định đã làm cho doanh thu tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ năm trước.

- Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 12.472,91 tỷ đồng, tăng 10,02% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm 2024 ước đạt 10.457,41 tỷ đồng, chiếm 83,84% trong tổng số và tăng 9,62% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 8,69%; Hàng may mặc, tăng 18,24%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 7,60%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 9,24%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 3,39%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 5,34%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 18,90%; Xăng, dầu các loại, tăng 12,01%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 24,28%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 26,92%; Hàng hoá khác, tăng 3,97%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 9,68%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 4 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.222,22 tỷ đồng, chiếm 9,8% trong tổng số và tăng 8,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 72,23 tỷ đồng, tăng 20,15%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 1.143,76 tỷ đồng, tăng 8,11%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 1,23 tỷ đồng, tăng 28,34% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác 4 tháng đầu năm 2024 ước đạt 793,28 tỷ đồng, chiếm 6,36% trong tổng số và tăng 17,74% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so như: dịch vụ kinh doanh bất động sản, tăng 6,49%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 24,08%; dịch vụ giáo dục và đào tạo, tăng 34,23%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tăng 26,55%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, tăng 10,87%; dịch vụ khác, tăng 24,72%...

Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 4 tháng đầu năm 2024 tăng cùng kỳ năm trước là do: Trong 4 tháng đầu năm 2024 (thời điểm diễn ra Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024), để bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường trên địa bàn tỉnh Kon Tum, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-UBND ngày 26/12/2023 về tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Công văn số 807/UBND-KTTH ngày 11/3/2024 về việc triển khai thực hiện công tác quản lý, điều hành giá năm 2024 và các doanh nghiệp, hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mại tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong 4 tháng đầu năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch … sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3), các hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập thành phố Kon Tum,… hấp dẫn phục vụ du khách dịp Tết, Lễ hội.

6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi

Hoạt động vận chuyển hành khách trong tháng Tư giảm so với tháng trước một mặt là do nhu cầu đi lại của người dân giảm mặt khác do người dân sử dụng phương tiện ô tô cá nhân để đi lại ngày càng nhiều. Hoạt động vận chuyển hàng hóa giảm so với tháng trước và tăng không nhiều so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động vận chuyển hàng hóa giảm mạnh do trong tháng có ít sản phẩm nông nghiệp thu hoạch hơn các tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 tăng 8,56% về lượng khách vận chuyển và tăng 5,86% lượng hàng hóa vận chuyển so với cùng kỳ năm trước.

(1) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 4 năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 4 năm 2024 đạt 232,67 tỷ  đồng, giảm 5,18% so với tháng trước và tăng 9,27% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 64,47 tỷ đồng (so với tháng trước giảm 9,93%), so với cùng kỳ năm trước tăng 12,04%; Vận chuyển ước đạt 973 nghìn lượt khách, tăng 5,13%; Luân chuyển ước đạt 126.887 nghìn lượt khách.km, tăng 4,78%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 151,1 tỷ đồng (so với tháng trước giảm 3,47%), so với cùng kỳ năm trước tăng 8,29%; Vận chuyển ước đạt 1.561 nghìn tấn, tăng 2,44%; Luân chuyển ước đạt 78.640 nghìn tấn.km, tăng 2,73%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1,81 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,93%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 15,29 tỷ đồng, tăng  6,7%.

(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước 4 tháng đầu năm 2024

- Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 4 tháng đầu năm 2024 đạt 969,69 tỷ  đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 282,43 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 30,37%; Vận chuyển ước đạt 4.001 nghìn lượt khách, tăng 8,56%; Luân chuyển ước đạt 512.153 nghìn lượt khách.km, tăng 8,22%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 618,7 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,84%; Vận chuyển ước đạt 6.357 nghìn tấn, tăng 5,86%; Luân chuyển ước đạt 317.213 nghìn tấn.km, tăng 6,27%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 7,44 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 23,05%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 61,12 tỷ đồng, tăng  16,72%.

7. Giá cả thị trường   

7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Tháng 4 năm 2024 giá cả thị trường trong tháng ở địa phương ổn định, không có sự biến động lớn về giá, không xảy ra hiện tượng ghim hàng tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 năm 2024 tăng 0,07% so với tháng trước; tăng 2,90% so với cùng kỳ năm trước; tăng 1,15% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 4 tháng đầu  năm 2024, CPI tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2024 tăng 0,07% (khu vực thành thị tăng 0,08%; khu vực nông thôn tăng 0,06%). Giá cả thị trường trong tháng ở địa phương ổn định, không có sự biến động lớn về giá, không xảy ra hiện tượng ghim hàng tăng giá. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 06 nhóm tăng là nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,31%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,14%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,94%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,16%; nhóm giao thông tăng 1,99%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07%. Có 03 nhóm giảm là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,65%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,03%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,06%. Có 02 nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.

Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

(1) Sáu nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

- Đồ uống và thuốc lá: Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,31%, là do nhóm rượu, bia tăng 0,28%, trong đó bia các loại tăng 0,46%, nguyên nhân là do sau nhiều tháng giảm do nhu cầu tiêu dùng giảm nay giá ổn định và tăng nhẹ trở lại.

- May mặc, mũ nón và giày dép: Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,14%, là do nhóm quần áo may sẵn tăng 0,25%, trong đó quần áo cho em gái tăng 0,65%; nhóm giầy dép tăng 0,1%, trong đó giầy dép cho nam tăng 0,84%; nhóm dịch vụ giầy, dép tăng 1,47%.

- Nhà ở và vật liệu xây dựng:  Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,94%,  nguyên nhân chính là do giá điện sinh hoạt tăng 1,33% (do nhu cầu tiêu dùng tăng nên giá bình quân tăng); nước sinh hoạt tăng 2,29% là do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng tăng làm cho giá bình quân tăng; giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước tăng 1,94%. Ở chiều ngược lại giá gas giảm 1,12% ( giảm 5.000 đồng/bình 12kg từ ngày 01/4/2024).

-Thiết bị và đồ dùng gia đình: Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,16%, tăng chủ yếu là do máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,92%; giường, tủ, bàn ghế tăng 1,28%; đồ điện tăng 0,63%; đồ nhựa và cao su tăng 0,85%; sửa chữa thiết bị gia đình tăng 0,61%. Ở chiều ngược lại, đồ dùng bằng kim loại giảm 0,55%; đồ dùng nấu ăn giảm 0,49%; thiết bị khác giảm 0,37%.

-Giao thông: Chỉ số nhóm giao thông tăng 1,99%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu tăng 4,85%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng tăng 5,0%, giá dầu diezel tăng 2,58%; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,02%, trong đó vận tải hành khách bằng đường sắt tăng 4,52%, vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 10,42%.

- Hàng hóa và dịch vụ khác: Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07% là do nhóm  đồ dùng cá nhân tăng 0,3%, trong đó hàng túi xách, va ly, ví tăng 1,16%; đồ trang sức tăng 2,36% là tăng theo giá vàng.

(2) Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,65%, trong đó:

+ Chỉ số nhóm lương thực giảm 0,63%, trong đó chỉ số nhóm gạo giảm 0,77% (gạo tẻ thường giảm 0,72%, gạo tẻ ngon giảm 0,91%, gạo nếp giảm 1,48%), nguyên nhân chủ yếu là do qua nhiều tháng tăng mạnh nay giá ổn định trở lại hơn nữa ở địa phương đang bắt đầu vào mùa thu hoạch lúa vụ Đông xuân. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác giảm 2,57%, trong đó khoai giảm 4,65%, ngô giảm 1,87% là do các sản phẩm đang mùa thu hoạch và nhu cầu tiêu dùng giảm.

+ Chỉ số nhóm thực phẩm giảm 0,76%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống giảm 1,32%, trong đó thịt lợn giảm 1,88%, thịt bò giảm 0,68% là do nhu cầu tiêu dùng giảm trong khi đó lượng cung tăng. Nhóm thủy sản tươi sống giảm 1,9% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh giảm 1,74%, nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh giảm 3,17%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung dồi dào. Nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 0,11%, trong đó cà chua giảm 6,9%, su hào giảm 2,24%, đỗ quả tươi giảm 5,35%, rau dạng quả, củ giảm 1,07%, nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm trên đang mùa thu hoạch. Ở chiều ngược lại một số mặt hàng rau tăng như: bắp cải tăng 5,31%, khoai tây tăng 2,4%, măng tươi tăng 6,35%, nguyên nhân chính là các sản phẩm rau trên trái vụ. Nhóm quả tươi, chế biến giảm 0,74%, trong đó xoài giảm 1,07%, chuối giảm 0,97%, quả có múi giảm 1,27%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng giảm đồng thời các sản phẩm trên đang vào mùa thu hoạch đại trà ở các tỉnh nên làm cho giá giảm. Nhóm đường, mật giảm 0,72%, trong đó đường giảm 1,22%. Nhóm sữa, bơ, pho mai giảm 0,1% là do sữa tươi giảm 0,14%, sữa bột trẻ em giảm 0,14%. Riêng nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 0,7%, trong đó cà phê bột tăng 4,15%, cà phê hòa tan tăng 1,32%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng cao.

+ Nhóm ăn uống ngoài gia đình giảm 0,36%, trong đó ăn ngoài gia đình giảm 0,56%. Ở chiều ngược lại, giá đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,48%, uống ngoài gia đình tăng 0,87% là do tăng giá một số mặt hàng nước giải khát.

-Bưu chính viễn thông: Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,03%, là do thiết bị điện thoại giảm 0,07%, trong đó máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 1,69%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động.

-Văn hóa, giải trí và du lịch: Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,06% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,52%, trong đó ti vi màu giảm 0,55%. Ở chiều ngược lại, nhóm hoa, cây cảnh và vật cảnh tăng 1,53%, trong đó cây, hoa cảnh tăng 2,16% là do nhu cầu tiêu dùng tăng và lượng cung giảm nên giá tăng theo; nhóm thiết bị dụng cụ thể thao tăng 1,3%, trong đó dụng cụ thể dục, thể thao tăng 1,87%.

(3) Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ không biến động giá:  là nhóm Giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.

So với tháng 4/2023, CPI tháng 4/2024 tăng 2,9%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,61%, tăng chủ yếu là do nhóm lương thực tăng 10,81%, riêng giá gạo tăng 15,2% là do giá gạo xuất khẩu tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,26%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,48%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,44%, tăng chủ yếu là do giá dầu hỏa tăng 9,46%, điện sinh hoạt tăng 10,02%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,83%; nhóm giao thông tăng 3,78% là do nhóm dịch vụ giao thông công cộng tăng 16,33%, nhóm nhiên liệu tăng 5,88%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,8%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng 11,37%; nhóm giáo dục tăng 1,34%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,11%.

Các nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,35%, giảm chủ yếu là do mặt hàng điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 2,43%.

So với tháng 12/2023, CPI tháng 4/2024 tăng 1,15%, trong đó có 08 nhóm hàng tăng giá, 02 nhóm giảm giá và 01 nhóm không biến động giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,46%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,33%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,76%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,61%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,52%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,41%; nhóm giao thông tăng 6,33%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,83%.

Các nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 1,1%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,25%.

Nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm 2024 tăng 1,87% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh

(1) Chỉ số giá vàng (+2,02%)

Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 4/2024 tăng 2,02% so với tháng trước; tăng 12,72% so với tháng 12/2023; tăng 23,68% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 4 tháng đầu năm 2024 tăng 18,47% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

(2) Chỉ số giá đô la Mỹ (+1,14%)

Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 4/2024 giao dịch bình quân quanh mức 25.167 VND/USD, tăng 1,14% so với tháng trước; tăng 2,79% so với tháng 12/2023; tăng 6,25% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 4 tháng đầu năm 2024 tăng 4,47%.

7.3. Giá sản xuất công nghiệp

Giá sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như nhu cầu thị trường; giá nguyên liệu đầu vào; mùa vụ sản xuất; tình hình lưu thông hàng hóa; tình hình xuất nhập khẩu cũng như các chính sách điều hành kinh tế của Nhà nước... Trong tháng các yếu tố trên ảnh hưởng tương đối lớn đến giá sản xuất công nghiệp. Chỉ số chung giá sản xuất công nghiệp tháng 4/2024 tăng 2,29% so với tháng trước; tăng 5,85% so với cùng kỳ năm trước và tăng 21,87% so với kỳ gốc năm 2020, cụ thể các nhóm mặt hàng như sau:

(1) Nhóm ngành khai khoáng: Chỉ số giá sản phẩm thuộc nhóm ngành khai khoáng tăng 0,29% so với tháng trước và tăng 6,36% so với cùng kỳ năm trước, nhóm khai khoáng tăng nhẹ so với tháng trước chủ yếu là giá đá xây dựng các loại tăng do nhu cầu sử dụng đá trong xây dựng tháng 4 tăng và do thời điểm này các đơn vị, doanh nghiệp, người dân triển khai xây dựng.

          (2) Nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Chỉ số nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng 0,21% so với tháng trước và tăng 6,68% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung trong tháng nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo không có biến động, một số nhóm ngành có tăng giảm nhưng không lớn. Như: sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 0,24%; giường tủ, bàn, ghế tăng 0,61%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) giảm 0,85%...

          (3) Nhóm điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: tăng 6,58% so với tháng trước và giảm 13,95% so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung nhóm điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng so với tháng trước do khu vực Tây Nguyên thời điểm hiện nay đang là mùa khô, mức nước trên các hồ thuỷ điện giảm, nguồn cung thuỷ điện bắt đầu giảm, giá bán điện của thuỷ điện tăng.

          (4) Nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải: tăng 0,47% so với tháng trước và giảm 1,31% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số giá nước tự nhiên khai thác dùng cho sinh hoạt tăng  1,7% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước giảm 4,94%; Chỉ số giá hoạt động thu gom, xử lý rác thải ổn định so với tháng trước.

8. Một số tình hình xã hội

8.1. Tình hình đời sống dân cư

Trong tháng 4 năm 2024, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển; chế độ, chính sách về an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; tình hình dịch bệnh luôn kiểm soát tốt; chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện; cải cách thủ tục hành chính được thực hiện mạnh mẽ; các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn; nắng hạn kéo dài đã gây ra hạn hán, thiếu nước sinh hoạt và tưới tiêu cho cây trồng cục bộ tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh; tình hình tai nạn giao thông chưa được kiềm chế.

8.2. Tình hình nổi bật, bất thường về xã hội

Về y tế: Trong tháng, ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, các dịch bệnh trên người được kiểm soát tốt, công tác đảm bảo an toàn thực phẩm được triển khai thực hiện nghiêm túc. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngành Y tế tình trạng thiếu bác sĩ, nhất là ở vùng đồng bào DTTS đang diễn ra, và có chiều hướng gia tăng trong những năm tiếp theo.

(a) Tình hình dịch bệnh trong tháng 3 năm 2024:

- Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới, giảm 02 ca so với tháng trước, giảm 01 ca so với tháng 3/2023. Luỹ tích đến 31/3/2024, không có tử vong, ghi nhận 03 ca mắc (thành phố Kon Tum 02, Tu Mơ Rông 01), tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước.

 - Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 27 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 07, Đăk Tô 07, Tu Mơ Rông 08, Kon Rẫy 05), tăng 23 ca so với tháng trước, giảm 05 ca so với tháng 3/2023. Luỹ tích đến 31/3/2024, không có tử vong, ghi nhận 42 ca mắc (thành phố Kon Tum 07, Đăk Tô 15, Tu Mơ Rông 11, Kon Rẫy 07, Kon Plông 02), giảm 15 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 22 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 01, Đăk Tô 03, Tu Mơ Rông 16, Kon Rẫy 02), tăng 20 ca so với tháng trước, tăng 16 ca so với tháng 3/2023. Luỹ tích đến 31/3/2024, không có tử vong, ghi nhận 48 ca mắc (thành phố Kon Tum 01, Đăk Hà 17, Đăk Tô 11, Tu Mơ Rông 17, Kon Rẫy 02), tăng 38 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 01 ổ dịch tại huyện Đăk Tô, tăng 01 ổ dịch so với tháng trước và bằng so với tháng 3/2023. Lũy tích đến 31/3/2024, ghi nhận 01 ổ dịch tại huyện Đăk Tô, giảm 03 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, không có tử vong, ghi nhận 05 ca mắc mới (Đăk Tô 04, Kon Rẫy 01), tăng 02 ca so với tháng trước, tăng 02 ca so với tháng 3/2023. Luỹ tích đến 31/3/2024, không có tử vong, ghi nhận 13 ca mắc (thành phố Kon Tum 04, Đăk Tô 07, Kon Rẫy 02), tăng 07 ca so với cùng kỳ năm trước.

 - Bệnh Lao: Trong tháng, không có tử vong, ghi nhận 46 ca mắc mới 1 , tăng 26 ca so với tháng trước, giảm 06 ca so với tháng 3/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 31/3/2024, không có tử vong, ghi nhận 94 ca mắc 2 , giảm 05 ca so với cùng kỳ năm trước; trong đó lao phổi AFB (+) 65, lao phổi AFB (-) 05 và lao ngoài phổi 24. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 31/3/2024: ghi nhận 2.403 ca; trong đó tử vong 26 ca, hoàn thành điều trị 2.099 ca, hiện đang được quản lý điều trị 278 ca.

 - Bệnh Phong: Lũy tích từ 01/01/2024 đến 31/3/2024, không có tử vong, không ghi nhận ca mắc mới. Quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên): Đang quản lý 51 bệnh nhân; bệnh nhân cũ điều trị nội trú còn lại đầu tháng 13; bệnh nhân đến khám (kê đơn) trong tháng 25 lượt; bệnh nhân nhập viện trong tháng 11; bệnh nhân xuất viện trong tháng 05; chuyển Bệnh viện Phong - Da liễu TW Quy Hòa 01; bệnh nhân hiện còn đang điều trị nội trú 19.

- Phòng chống dịch Dại: Tính đến ngày 31/3/2024, trên địa bàn tỉnh không ghi nhận trường hợp tử vong do bệnh Dại. Đã tổ chức 03 đợt giám sát phòng chống bệnh Dại tại các xã Ya Ly, Sa Bình, Ya Xiêr huyện Sa Thầy, kết quả phát hiện 11 trường hợp phơi nhiễm, đã tư vấn, hướng dẫn 11 trường hợp thực hiện tiêm huyết thanh, vắc xin phòng chống bệnh Dại.

- Trong 3 tháng đầu năm 2024, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...); Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV); Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19); Đậu mùa khỉ; Cúm A(H1N1); Sốt rét; Bệnh do vi rút Zika; Viêm não Nhật Bản; Viêm gan vi rút A; Bạch hầu; Ho gà; Sởi...

(b) Tiêm chủng mở rộng

- Tiếp tục triển khai tiêm bổ sung vắc xin uốn ván cho phụ nữ trong tuổi sinh đẻ vùng nguy cơ cao, kết quả đến 31/3/2024: 7.821/8.382 đối tượng, tỷ lệ 93,3%.

- Tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại cho người từ 12 tuổi trở lên, kết quả đến 31/3/2024:

 + Kết quả tiêm nhóm đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,73%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 98,76%; tỷ lệ tiêm liều bổ sung đạt 96,7%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 1 đạt 92,54%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 2 đạt 100%.

 + Kết quả tiêm nhóm đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,52%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại đạt 95,61%.

 + Kết quả tiêm nhóm đối tượng từ 5 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,3%.

 (c) Phòng chống HIV/AIDS

- Tình hình HIV/AIDS trong tháng 3/2024:

Số người ghi nhận nhiễm HIV: 02 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật 01, xét nghiệm nơi khác 01); 01 bệnh nhân HIV chuyển sang giai đoạn AIDS; 02 bệnh nhân chuyển đi tỉnh khác quản lý.

 - Lũy tích HIV/AIDS tính đến ngày 31/3/2024: Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS 592 người; trong đó tử vong do HIV/AIDS 211 người (AIDS 199, HIV 12), nhiễm HIV/AIDS còn sống 381 người (còn sống đang quản lý và tiếp cận được 258); nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 305 người, trong đó còn sống 105 người.

 - Điều trị ARV: Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 31/3/2024 là 192 bệnh nhân (có 08 trẻ em). Tổng số bệnh nhân điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 07.

(d) An toàn vệ sinh thực phẩm (ATTP)

- Cấp 15 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm (cấp mới: 07 cơ sở, cấp lại: 08 cơ sở) và tiếp nhận bản tự công bố của 05 sản phẩm.

- Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng xảy ra 04 trường hợp ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ do ăn, uống không đảm bảo vệ sinh.

(e) Khám chữa bệnh

 Thực hiện tốt công tác chuyên môn, đảm bảo tốt công tác phòng chống dịch bệnh. Tổng số lượt khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập trong tháng 79.717 lượt người, tăng 25,9% so với tháng trước và số lượt điều trị nội trú 6.313 lượt người, tăng 18,1% so với tháng trước.

- Về văn hóa: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều chương trình, hoạt động du lịch, văn hóa, nghệ thuật đặc sắc thu hút đông đảo người dân và du khách trong và ngoài tỉnh.

Từ ngày 10-12/4/2024, UBND thành phố Kon Tum tổ chức các hoạt động chào mừng Kỷ niệm 15 năm Ngày thành lập thành phố Kon Tum (10/4/2009-10/4/2024) gắn với Ngày hội quảng bá, kết nối du lịch các thành phố ở Tây Nguyên, thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) năm 2024; Trong khuôn khổ chương trình Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập huyện Đăk Hà (24/3/1994 - 24/3/2024), huyện Đăk Hà đã tổ chức chương trình nghệ thuật “Đăk Hà - Niềm tin chân trời mới”.

- Về thể dục thể thao: Trên địa bàn tỉnh, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì; Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng.

Chiều 28/3/2024, Giải bóng đá hạng Nhì quốc gia 2024 đã chính thức khởi tranh với lượt trận đầu tiên tại hai bảng A và B. Tại Sân động tỉnh Kon Tum, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức khai mạc bảng A.

8.3. Tình hình bất thường về thiên tai, hỏa hoạn

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh Kon Tum thời tiết khô hạn, nắng nóng đã gây ra khô hạn và thiếu nước cục bộ tại một số huyện trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian đến nếu diễn biến thời tiết tiếp tục nắng nóng, không có mưa, khả năng xảy ra tình trạng thiếu nước ở cuối vụ Đông xuân, sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn. Để chủ động triển khai các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu nước, mùa khô năm 2024, đảm bảo nguồn nước, nâng cao hiệu quả tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, dân sinh trên địa bàn tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Công văn triển khai thực hiện ý kiến của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 01/4/2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện các biện pháp phòng, chống nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn[3].

8.4. Tình hình môi trường

- Trong tháng, Công an tỉnh đã phát hiện 02 vụ vi phạm môi trường gồm: 01 vụ Hủy hoại rừng và 01 vụ Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (tăng 02 vụ so với cùng kỳ năm trước và 01 vụ so với tháng 3/2024) . Hiện cơ quan chức năng đang củng cố hồ sơ để xử lý theo quy định của Pháp luật.

8.5. Tình hình trật tự an toàn xã hội

- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 31 vụ (tăng 12 vụ so với tháng trước). Giết người 02 vụ; Vô ý làm chết người 01 vụ; cố ý gây thương tích 03 vụ; Hiếp dâm người dưới 16 tuổi 01 vụ; Trộm cấp tài sản 08 vụ; Trộm cắp tài sản+Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 01 vụ; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 05 vụ; Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 07 vụ; Vi phạm quy định về an toàn lao động 01 vụ; Đánh bạc 02 vụ. Hậu quả, thiệt hại: 03 người chết; 03 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 740 triệu đồng. Địa bàn: TP Kon Tum 11 vụ; Đăk Hà 09 vụ; Ngọc Hồi 03 vụ; Sa Thầy 03 vụ; Kon Rẫy 02 vụ; Đăk Tô 02 vụ; Kon Plông 01 vụ.

- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 03 vụ (không tăng, giảm so với tháng trước), gồm: Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm 02 vụ; Buôn bán hàng cấm 01 vụ. Địa bàn: Ia H’Drai 02 vụ; Ngọc Hồi 01 vụ.

- Phạm tội về ma túy: Phát hiện 07 vụ (giảm 06 vụ so với tháng trước), cụ thể: Tàng trừ trái phép chất ma túy 05 vụ; Vận chuyển trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 255,58g ma túy tổng hợp. Địa bàn: TP Kon Tum 07 vụ.

- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: xảy ra 14 vụ TNGT (so với tháng trước tăng 01 vụ, giảm 04 người chết, tăng 08 người bị thương) làm 09 người chết, 15 người bị thương. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng: 123 triệu đồng. Gồm: 06 vụ ít nghiêm trọng, 06 vụ nghiêm trọng, 02 vụ rất nghiêm trọng. Địa bàn: Đăk Hà 06 vụ; TP Kon Tum 03 vụ; Kon Rẫy 02 vụ; Đăk Tô, Ngọc Hồi, Ia H'Drai mỗi nơi 01 vụ.

Ngày 13/4/2024, trên QL24 tại thôn Đắk Puih, Xã Đắk Tờ Re, huyện Kon Rẫy đã xảy ra vụ TNGT giữa xe ô tô tải với xe ô tô khách, hậu quả làm chết 1 người, 4 người bị thương và 18 người bị xây xát; Tại đường liên xã Đăk Ui, đoạn thuộc thôn Đăk Lợi, xã Đăk Ngọc, huyện Đăk Hà xảy ra TNGT giữa xe mô tô với xe máy điện, hậu quả làm 01 người tử vong tại chỗ, 02 người bị thương; sáng ngày 16/4/2024, trên QL 14 thuộc địa phận xã Đăk Man, huyện Đăk Glei đã xảy ra vụ lật xe tải làm 02 người tử vong.

- Tình hình cháy, nổ: Xảy ra 07 vụ cháy (so với tháng trước tăng 05 vụ). Trong đó: Cháy nhà dân 02 vụ; cháy phương tiện giao thông 02 vu; cháy cơ sở sản xuất kinh doanh 01 vụ; cháy thiết bị điện trên cột điện 02 vụ. Địa bàn: TP Kon Tum 05 vụ; Sa Thầy, Đak Glei mỗi nơi 01 vụ. Không gây thiệt hại về người; thiệt hại về tài sản khoảng 1,6 tỷ đồng. Nguyên nhân: So sự cố điện 03 vụ; tự cháy 01 vụ; đang điều tra 03 vụ.

- Tình hình sự cố, tai nạn: Xảy ra 01 vụ (giảm 01 vụ so với tháng trước). Thiệt hại: 01 người chết. Kết quả: Tìm được 01 thi thể nạn nhân.

 


[1] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư

[2] Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum

[3] Công văn số 1293/UBND-NNTN ngày 16/4/2024.

Xem và tải về:   Tải về

Cục Thống kê 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC