• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Chủ Nhật, 01/09/2024 06:30
Thông tin kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum tháng 5 năm 2024
Cập nhật: Thứ Tư, 29/05/2024 08:02

 

Tình hình kinh tế - xã hội trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định, phát triển. Các cấp, các ngành đã tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ: sản xuất công nghiệp, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, du lịch, diện tích các cây trồng chủ lực….; công tác thu ngân sách, giải ngân vốn đầu tư, các Chương trình Mục tiêu quốc gia được chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu năm. Lĩnh vực văn hóa, xã hội diễn ra khá sôi nổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh được đảm bảo. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

 Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2024 ước tính đạt như sau:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tháng 5 năm 2024, sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ trọng tâm là tập trung thu hoạch cây trồng vụ đông xuân. Thời tiết trên địa bàn tỉnh vẫn còn nắng nóng gay gắt, lượng mưa ít nên người dân xuống giống trễ hơn so với cùng kỳ năm trước. Công tác phòng chống dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm được giám sát chặt chẽ. Sản xuất lâm nghiệp duy trì ổn định; công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng luôn được chú trọng.

1.1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

(1) Sản xuất vụ đông xuân 2023-2024.

Nhìn chung vụ đông xuân năm nay thời tiết khô hanh, ít mưa, nắng nóng tăng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, ao, hồ giảm. Các công trình hồ, đập thủy lợi cung cấp nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mức nước cũng giảm dần nhưng do có sự hướng dẫn và chỉ đạo kịp thời từ các sở, ngành đến các địa phương nên nguồn nước tưới tiêu được đảm bảo do đó năng suất của các loại cây trồng tương đối ổn định. Bên cạnh đó, thời tiết nắng nóng cũng gây ra một số loài sâu bệnh hại phát triển nhanh chóng, như: bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu,... nhờ sự chỉ đạo kịp thời của ngành Nông nghiệp mà các ổ bệnh được xử lý nhanh chóng, kịp thời.

Tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ đông xuân 2023-2024 ước đạt: 10.340 ha, tăng 1,02% (+ 104,16 ha) so với vụ đông xuân năm trước. Cụ thể, diện tích, năng suất, sản lượng cây hàng năm vụ đông xuân 2023-2024 so với vụ đông xuân năm trước như sau:

Cây lương thực có hạt: Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt ước đạt: 7.992 ha, giảm 1,43% (-116,06 ha). Trong đó:

- Cây lúa DTGT ước đạt: 7.228 ha, giảm 0,89% (-64,9 ha). Năng suất lúa ước đạt 50,4 tạ/ha, tăng 0,44%; sản lượng lúa ước đạt 36.432 tấn, giảm 0,46% (-167,34 tấn).

- Cây ngô DTGT ước đạt: 764 ha, giảm 6,28% (-51,2 ha). DTGT ngô giảm là do người dân chuyển đổi sang cây trồng khác như mía, cây ăn quả. Năm nay người dân chuyển đổi sang một số giống ngô lai nên năng suất tăng, ước đạt 39,85 tạ/ha, tăng 2,36%; sản lượng ngô ước đạt 3.044 tấn, giảm 4,08% (-129,33 tấn), sản lượng giảm do DTGT giảm.

 Cây lấy củ có chất bột: Diện tích gieo trồng cây lấy củ có chất bột ước đạt: 67 ha, giảm 19,25% (-15,9 ha), diện tích giảm là do vụ đông xuân năm trước người dân huyện Đắk Hà trồng khoai sọ trên đất tái canh cà phê nhưng do giá trị kinh tế không cao nên năm nay người dân không trồng nữa chuyển qua trồng các loại cây khác.

- DTGT khoai lang ước đạt: 65 ha, tăng 14,31% (+8,1 ha). Diện tích tăng chủ yếu là tăng diện tích trồng xen trên đất tái canh cà phê. Năng suất ước đạt: 120,8 tạ/ha, tăng 1,26%; sản lượng ước đạt: 782 tấn, tăng 15,75% (+106,34 tấn), sản lượng tăng do diện tích gieo trồng và năng suất tăng.

 Cây có hạt chứa dầu: Diện tích gieo trồng cây lấy hạt chứa dầu ước đạt: 36 ha, tăng 2,57% (+0,9 ha). Trong đó:

- DTGT lạc ước đạt: 33 ha, tăng 2,78% (+0,9 ha). DTGT tăng do là người dân tăng cường trồng thêm trên các ô, nà ven sông. Năng suất ước đạt: 17,5 tạ/ha, tăng 1,74%; sản lượng ước đạt: 58 tấn, tăng 4,57% (+ 2,54 tấn) là do diện tích và năng suất tăng nên sản lượng tăng.

 Cây rau, đậu các loại và hoa: Diện tích gieo trồng rau, đậu các loại và hoa ước đạt: 1.798 ha, tăng 10,57% (+171,82 ha). Trong đó:

- DTGT rau các loại ước đạt: 1.561 ha, tăng 9,17% (+131,07 ha). Năng suất ước đạt: 134,08 tạ/ha, tăng 0,75%; sản lượng ước đạt: 20.927 tấn, tăng 9,98% (+1.899,6 tấn) là do diện tích tăng nên sản lượng tăng. Diện tích tăng là do doanh nghiệp và người dân mở rộng diện tích gieo trồng rau, củ, quả nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao trong mùa nắng nóng.

- DTGT đậu các loại ước đạt: 148 ha, tăng 37,07% (+40,05 ha). Diện tích tăng là do giá cả ổn định, nên người dân chú trọng đầu tư trồng thêm vào những diện tích bị bỏ trống từ các năm trước. Năng suất ước đạt: 17,57 tạ/ha, tăng 4,73%; sản lượng ước đạt: 260 tấn, tăng 43,54% (+78,95 tấn), sản lượng tăng do diện tích và năng suất tăng.

 Cây hàng năm khác: Diện tích gieo trồng cây hàng năm khác ước đạt: 447 ha, tăng 16,51% (+63,4 ha). DTGT trồng tăng là do nhu cầu thị trường tăng nên người dân mở rộng DTGT. Trong đó:

- DTGT cây gia vị hàng năm ước đạt: 54,95 ha, tăng 14,12% (+6,8 ha). DT tăng là do nhu cầu tiêu thụ tăng nên người dân mở rộng DTGT. Trong đó ớt cay là 27,75 ha, tăng 7,35%; gừng là 27,2 ha, tăng 21,97%.

- DTGT cây dược liệu, hương liệu hàng năm ước đạt: 103,7 ha, giảm 5,98% (-6,6 ha), trong đó: sả là 75,08 ha, giảm 14% là do người dân chuyển đổi sang cây trồng khác như mía, cây ăn quả.

- DTGT cây hàng năm khác còn lại ước đạt: 288,8 ha, tăng 27,13% (+61,2 ha), trong đó: cỏ voi là 286,4 ha, tăng 27,2%, do cây cỏ voi dễ trồng, ít đầu tư chăm sóc nên người dân mở rộng DTGT nhằm cung ứng đủ nguồn thức ăn cho gia súc.

(2) Sản xuất vụ mùa

Hiện nay, cây trồng vụ đông xuân 2023-2024 đã thu hoạch gần xong. Người dân đang khẩn trương tiến hành làm đất, vệ sinh đồng ruộng và tiến hành gieo trồng một số cây trồng vụ mùa năm 2024. Các cơ quan chức năng triển khai kế hoạch cấp nước và chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, đảm bảo sản xuất đúng khung thời vụ, đạt hiệu quả và năng suất cao. Hướng dẫn các địa phương chú trọng diệt chuột đầu vụ mùa 2024, thông báo dự kiến tình hình sinh vật gây hại và thông báo hướng dẫn giải pháp kỹ thuật sản xuất gửi đến các địa phương; tiếp tục tuyên truyền vận động, duy trì hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp và người dân nhân rộng phát triển cây trồng theo hướng hữu cơ đối với các cây rau củ quả, dưa, cây trồng bản địa, đặc trưng, có lợi thế trên địa bàn tỉnh. Cụ thể tình hình sản xuất cây trồng vụ mùa năm 2024 như sau:

Cây hàng năm

Tính đến ngày 15/5/2024, tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm vụ mùa đạt 25.880 ha, giảm 4,82% (-1.312 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích giảm là do năm nay thời tiết không thuận lợi, nắng nóng kéo dài, lượng mưa ít nên một số cây trồng xuống giống trễ hơn. Cụ thể DTGT một số cây hàng năm vụ mùa năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

- Cây lúa diện tích gieo trồng ước tính là 2.122 ha, giảm 13,94% (-343,8 ha), diện tích giảm là do người dân đang tập trung thu hoạch lúa đông xuân, mặt khác thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng kéo dài, lượng mưa quá ít nên một số địa phương chưa xuống giống. Trong đó lúa ruộng ước tính là 1.386 ha; lúa rẫy ước tính là 736 ha.

- Cây ngô diện tích gieo trồng ước tính là 401 ha, giảm 1,38% (-5,6 ha).

- Cây sắn diện tích gieo trồng ước tính là 20.525 ha, giảm 5,43% (- 1.178 ha). Nguyên nhân giảm là do mưa ít, đất khô nên một số hộ dân chưa xuống giống.

- Cây mía diện tích gieo trồng ước tính là 1.196 ha, tăng 24,39% (+ 234 ha). Diện tích tăng là do nhà máy đường kết hợp với người dân mở rộng diện tích gieo trồng.

- Rau các loại diện tích gieo trồng ước tính là 808 ha, giảm 0,13% .

- Đậu các loại diện tích gieo trồng ước tính là 104 ha, giảm 18,37% (- 23,3 ha). Diện tích giảm chủ yếu ở huyện Sa Thầy, do thời tiết nắng nóng, ít mưa nên một số hộ dân chưa xuống giống.

- Khoai lang diện tích gieo trồng ước tính là 45 ha, giảm 8,3% (-4,1 ha). Diện tích giảm là do lượng mưa ít không thuận lợi cho việc gieo trồng nên người dân xuống giống ít hơn so với cùng kỳ năm trước.

Cây lâu năm

- Tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn ước tính đến thời điểm 31/5/2024 là 130.598 ha, tăng 6,57% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, một số cây trồng chủ lực của tỉnh (cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả) đang sinh trưởng và phát triển tốt. Đến nay, tổng diện tích cây cà phê đạt 29.846 ha, tăng 2,47%; Diện tích cây cao su đạt 79.091 ha, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng diện tích cây ăn quả là 14.135 ha, tăng 46,93% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó cây Mắc ca khoảng 3.502 ha, tăng 51,33%.  Diện tích cây ăn quả tăng cao là do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nhiều nhóm cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế như chuối, sầu riêng, chanh leo, mắc ca, mít… Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường ổn định nên nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tập trung vào những nông sản có giá trị để xuất khẩu như chanh leo, chuối, sầu riêng… đồng thời các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại, do đó nhiều nông dân và doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi từ cây hàng năm hiệu quả không cao sang trồng cây ăn quả đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

b) Chăn nuôi

 Tình hình chăn nuôi trên địa bàn ước tính đến thời điểm 31/5/2024 so với cùng kỳ năm trước như sau:

Tổng đàn trâu 24.226 con, tăng 0,89% (+214 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 1.199 con, tăng 1,4% (+17 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 327,3 tấn, tăng 1,3% (+4,3 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn bò 86.548 con, tăng 2% (+1.698 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 14.608 con, tăng 2,3% (+326 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 2.724 tấn, tăng 2,3% (+60,7 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn lợn 176.418 con, tăng 10,52% (+16.793 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 124.170 con, tăng 5,3% (+6.305 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 9.634 tấn, tăng 5,6% (+514 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Số lượng và sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng do nhu cầu tiêu dùng tăng, giá cả ổn định và tình hình dịch tả lợn châu phi 5 tháng đầu năm được kiểm soát tốt, không phát sinh dịch bệnh nên người dân tranh thủ tái đàn. Thêm vào đó hiện nay mô hình nuôi gia công đang phát triển trên địa bàn tỉnh đã góp phần ổn định cho ngành chăn nuôi của tỉnh.

Tổng đàn gia cầm 1.972.000 con, tăng 5,48% (+102.500 con) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà 1.794.000 con, tăng 5,82% (+98.600 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 2.611 tấn, tăng 5,8% (+144 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 2.332 tấn, tăng 5,9% (+129 tấn). Tổng đàn gia cầm tăng cả về số lượng đầu con và sản phẩm là do hiện nay chăn nuôi gia cầm đang đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chăn nuôi các loại con khác do thời gian thu sản phẩm nhanh, giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ đã đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi, chủ động phòng trừ dịch bệnh kịp thời, tạo thu nhập ổn định cho người chăn nuôi sản xuất. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đang phát triển thêm nhiều cơ sở chăn nuôi gà với quy mô lớn.

 Tình hình dịch bệnh trong tháng 5 năm 2024

Trong tháng bệnh Dịch tả lợn Châu phi đã xảy ra tại 01 hộ chăn nuôi thôn Đăk Rang, xã Đăk Pék, huyện Đăk Glei. Địa phương đã kịp thời triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định, tiêu huỷ 57 con lợn mắc bệnh và chết theo quy định. Đến nay ổ bệnh đã được khống chế và dập tắt.

Các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Lỡ mồm long móng, Viêm da nổi cục, Tai xanh, Cúm gia cầm, Dại chó mèo…không phát sinh. Các bệnh thông thường trên đàn vật nuôi đã được lực lượng chức năng phát hiện và xử lý kịp thời theo quy định.

1.2. Lâm nghiệp

Tháng 5 năm 2024, sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu  thực hiện khâu lâm sinh, khai thác gỗ và củi. Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, luôn đặt trong tư thế chủ động và sẵn sàng, được các cơ quan chuyên môn chú trọng thực hiện. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương, tập hợp sức mạnh của Nhân dân thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng.  

Tính đến ngày 15/5/2024, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ cháy rừng với diện tích thiệt hại là 8,3 ha và 10 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 6,09 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Công tác trồng rừng: Các đơn vị, địa phương đã chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết (cây giống, quỹ đất,…) để triển khai công tác trồng rừng, trồng cây phân tán khi thời tiết thuận lợi.     Hiện tại thời tiết trên địa bàn tỉnh nắng nóng, ít mưa nên công tác trồng rừng mới chưa tiến hành.

Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 31/5/2024, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 60.420 m3, tăng 2,01% (+1.190 m3) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác là 112.125 ster, tăng 1,69% (+ 1.867 ster) so với cùng kỳ năm trước.

1.3. Thuỷ sản

Hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi ao hồ từ quảng canh cải tiến sang thâm canh, bán thâm canh, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.

- Ước tính đến 31/5/2024, diện tích nuôi trồng thủy sản là 973 ha, tăng 15,7 % (+132 ha) so với cùng kỳ năm trước.

- Sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.824 tấn, tăng 7,17% (+189 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 1.860 tấn, tăng 7,76% (+134 tấn);         Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 964 tấn, tăng 6,05% (+55 tấn).

Nhìn chung sản lượng thủy sản trong kỳ tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, bên cạnh đó  cùng với khai thác đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối tăng.

2. Sản xuất công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2024 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá cao so cùng kỳ năm trước. Hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng; một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, sản xuất bàn ghế, chế biến gỗ... do năm nay tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn, các doanh nghiệp nhận nhiều đơn hàng, một số doanh nghiệp đang mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao công suất máy móc để đáp ứng sản xuất. Một số ngành như sản xuất đường, tinh bột sắn, chế biến gỗ nguồn cung cấp nguyên liệu tương đối đảm bảo, tình trạng thiếu hụt nguyên liệu không còn xảy ra. Ngành sản xuất, phân phối điện; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 9,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 11,79%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,03%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,64%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,92%.

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 5 năm 2024 ước tính tăng 7,93% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng cao nhất ở ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải (tăng 14,96%), tháng 5 đang trong thời gian cao điểm mùa khô, năm nay thời tiết nắng nóng bất thường so các năm nên nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân tăng cao; một mặt các đơn vị hoạt động thu gom xử lý rác thải mở rộng địa bàn thu gom rác thải, tăng công suất hoạt động của nhà máy. Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 14,01%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang tập trung thi công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,42%, trong đó tăng cao ở một số ngành như  chế biến gỗ; Sản xuất sản phẩm từ cao su; sản xuất giường, tủ, bàn ghế; sản xuất cấu kiện kim loại... do nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định... . Ngành sản xuất phân phối điện tăng thấp so cùng kỳ (tăng 5,59%) do ngành điện chủ động  giảm công suất để ổn định sản xuất.

So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 5 ước tính tăng 3,97%. Trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,37%, nguyên nhân hiện tại đã vào cuối vụ thu hoạch sắn, nguồn cung cấp nguyên liệu giảm nên sản lượng sản phẩm sản xuất của các nhà máy tinh bột sắn giảm mạnh. Ngành sản xuất phân phối điện tăng 12,58% do điều tiết sản lượng chung của ngành điện. 2 ngành còn lại gồm khai thác khoáng sản và ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 9,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 11,79%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,03%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,64%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,92%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II đều tăng so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 11,79%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,2%; Sản xuất trang phục tăng 8,75%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,54%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 18,29%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 4,85%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 5,89%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 9,01%. Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 4,22%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 7,31%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,98%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,64%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,74%.

2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp

Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 5 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 38.409 m3, tăng 14,31%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 7.770 tấn, tăng 13,70%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 17,781 triệu viên, tăng 7,38%; điện sản xuất 238,98 triệu Kwh, tăng 3,95%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 1.281,52 triệu Kwh tăng 8,32%; Đá xây dựng khác đạt 192.832 m3 tăng 11,87%; Tinh bột sắn đạt 115.912 tấn tăng 4,55%; Đường RE đạt 10.271 tấn, tăng 44,01%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 700,77 ngàn cái, tăng 8,72%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 13.678 m3, tăng 18,29%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 91,24 triệu trang tăng 4,85%; Cồn béo công nghiệp đạt 4.656 tấn tăng 5,92%; Phân vi sinh đạt 537 tấn tăng 5,92%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 835 tấn, tăng 9,01%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 78,22 triệu viên, tăng 8,83%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 159,68 nghìn viên, tăng 11,17%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 11.503 tấn, tăng 6,12%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 100.432 chiếc, tăng 12,03%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 42.677 chiếc, tăng 16,74%...

2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 5/2024 giảm 0,12% so với tháng trước và tăng 5,53% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 2,18%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 2,74%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 3,34%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,92 %; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,14%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 11,68% so với cùng kỳ năm trước.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được quan tâm chỉ đạo; đã chủ động nắm bắt thông tin, đối thoại để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư, doanh nghiệp. Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cơ bản được duy trì.

Trong tháng 5 năm 2024 (tính đến ngày 20/4/2024) toàn tỉnh có 17 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 106,1 tỷ đồng, giảm 5,56% về số doanh nghiệp và giảm 91,25% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 01 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 04 doanh nghiệp đã giải thể; 10 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 (tính đến ngày 20/5/2024) có 130 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 16,07% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 1.029,7 tỷ đồng, giảm 41,85% so với cùng kỳ năm trước. Có 24 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 44,19% so với cùng kỳ năm trước; 150 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 32,74% so với cùng kỳ năm trước; 28 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 55,56% so với cùng kỳ năm trước;.

4. Vốn đầu tư

Trong tháng Năm, vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tiếp tục được các Sở, ngành và địa phương nỗ lực đẩy mạnh thực hiện triển khai, giải ngân vốn đầu tư công, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đặc biệt là các dự án chuyển tiếp. Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt 931,12 tỷ đồng, tăng 7,84% so với cùng kỳ năm trước .

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh trong tháng 5 năm 2024 là 230,8 tỷ đồng, tăng 11,70% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 174,33 tỷ đồng, chiếm 75,53% trong tổng số nguồn vốn; Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 56,48 tỷ đồng, chiếm 24,47% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... 

 Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn đạt 931,12 tỷ đồng, tăng 7,84% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, chia ra:

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 713,04 tỷ đồng, chiếm 76,58% trong tổng số nguồn vốn, tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh là 386,6 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 291,87 tỷ đồng; nguồn vốn ODA 7,47 tỷ đồng;  nguồn vốn Xổ số kiến thiết là 27,01 tỷ đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 218,08 tỷ đồng, chiếm 23,42% trong tổng số nguồn vốn, tăng 17,13% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện là 142,29 tỷ đồng; nguồn vốn hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 75,79 tỷ đồng.

- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp xã không phát sinh.

Nhìn chung trong 5 tháng đầu năm 2024 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2023 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2024 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối Tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra biên giới xã Mo Ray, huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; Đầu tư XD cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum với huyện Sơn Tây, Sơn Hà - Quảng Ngãi; Hệ thống thoát nước, vỉa hè các tuyến đường nội thành, thành phố Kon Tum…

5. Hoạt động ngân hàng[2]

- Tình hình thực hiện lãi suất: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tiếp tục được duy trì ổn định. Hiện nay, các TCTD trên địa bàn áp dụng mức lãi suất như sau:

 * Lãi suất huy động bằng VNĐ:  Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng: ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 3,0-4,0%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 4,0-5,0%/năm.

 * Lãi suất cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến: 4,0-9,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 9,0-12,0%/năm.

- Hoạt động huy động vốn: Trong kỳ báo cáo, mức lãi suất huy động tiếp tục được duy trì khá ổn định. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn tích cực đẩy mạnh nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn. Đến ngày 31/5/2024, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 23.200 tỷ đồng, tăng 0,8% (+176 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.550 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,7% tổng nguồn vốn huy động, giảm 5,3% (-86 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2023.

- Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phẩm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn. Đến ngày 31/5/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đạt 46.550 tỷ đồng, tăng 0,1% (+38 tỷ đồng) so với cuối năm 2023. Trong đó:

- Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 29.000 tỷ đồng, chiếm 62,3% tổng dư nợ, tăng 1,2% (+356 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 17.550 tỷ đồng, chiếm 37,7% tổng dư nợ, giảm 1,8% (-318 tỷ đồng) so với đầu năm.

 - Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân:  Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 15.050 tỷ đồng, chiếm 32,3% tổng dư nợ, tăng 0,9% (+130 tỷ đồng) so với đầu năm;  Dư nợ cho vay hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã ước đạt 55 tỷ đồng, chiếm 0,1% tổng dư nợ, tăng 3,1% (+1,6 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay hộ kinh doanh và cá nhân ước đạt 31.442 tỷ đồng, chiếm 67,5% tổng dư nợ, giảm 0,3% (-94 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ cho vay khác ước đạt 3,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ.

6. Thương mại, dịch vụ

Tháng Năm tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn so với tháng trước, sức mua hàng hoá tăng nhẹ là do trên địa bàn tỉnh đã tổ chức nhiều chương trình giảm giá, khuyến mãi nhằm kích thích tiêu dùng của người dân trong dịp lễ 30/4 và 01/5 kéo dài liên tục 5 ngày, nhờ đó các hoạt động mua sắm, ăn uống, vui chơi giải trí trở nên sôi động. Thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và chi tiêu cho đời sống theo đó cũng ổn định đã làm cho doanh thu tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,23% so với cùng kỳ năm trước.

6.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 5 năm 2024 đạt 3.212,6 tỷ đồng, tăng 1,07% so với tháng trước và tăng 14,96% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.691,23 tỷ đồng, chiếm 83,77% trong tổng số, tăng 0,89% so với tháng trước và tăng 14,57% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 331,89 tỷ đồng, chiếm 10,33% trong tổng số, tăng 2,41% so với tháng trước và tăng 15,32% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 189,47 tỷ đồng, chiếm 5,9% trong tổng số, tăng 1,31% so với tháng trước và tăng 20,21% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt đạt 15.718,13 tỷ đồng, tăng 11,23% so với cùng kỳ năm trước.

+ Doanh thu bán lẻ hàng hóa 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 13.170,14 tỷ đồng, chiếm 83,79% trong tổng số và tăng 10,78% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 9,78%; Hàng may mặc, tăng 18,71%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 8,39%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 11,51%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 6,57%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 7,03%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 18,64%; Xăng, dầu các loại, tăng 12,35%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 24,28%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 28,15%; Hàng hoá khác, tăng 4,86%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 11,20%.

+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.564,2 tỷ đồng, chiếm 9,95% trong tổng số và tăng 10,86% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 101,4 tỷ đồng, tăng 23,46%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 1.461,2 tỷ đồng, tăng 10,06%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 1,6 đồng, tăng 32,27% so với cùng kỳ năm trước.

+ Doanh thu dịch vụ khác 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 983,78 tỷ đồng, chiếm 6,26% trong tổng số và tăng 18,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so như: dịch vụ kinh doanh bất động sản, tăng 7,51%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 23,63%; dịch vụ giáo dục và đào tạo, tăng 34,26%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tăng 26,78%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, tăng 13,06%; dịch vụ khác, tăng 23,97%...

Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 5 tháng đầu năm 2024 tăng cùng kỳ năm trước là do: Trong 5 tháng đầu năm 2024 (thời điểm diễn ra Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024), để bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường trên địa bàn tỉnh Kon Tum, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-UBND ngày 26/12/2023 về tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Công văn số 807/UBND-KTTH ngày 11/3/2024 về việc triển khai thực hiện công tác quản lý, điều hành giá năm 2024. Trong những tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định và đời sống Nhân dân tương đối ổn định so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp và hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình kích cầu tiêu dùng, khuyến mại tập trung được tổ chức đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, nên giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng; Nguồn cung hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, thị trường nhìn chung bình ổn, không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, nguồn cung luôn được bảo đảm, nhu cầu mua sắm tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật phẩm, văn hoá, giáo dục... Hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ năm trước là do trong 5 tháng đầu năm 2024, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, văn nghệ, thể thao truyền thống; trải nghiệm, trò chơi dân gian; giới thiệu các tour, tuyến tham quan du lịch … sinh động, hấp dẫn mang sắc thái Xuân, ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3), các hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập thành phố Kon Tum, kỷ niệm 30 năm thành lập huyện Đăk Hà (24/3/1994 - 24/3/2024), dịp lễ 30/4 và 01/5 kéo dài liên tục 5 ngày… hấp dẫn phục vụ du khách dịp Tết, Lễ hội.

6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi

Điểm sáng nhất trong ngành giao thông vận tải 5 tháng đầu năm 2024 chính là doanh thu vận tải hành khách tăng 28,6% so với cùng kỳ. Nhu cầu về đi lại và vận chuyển hàng hóa người dân ngày càng tăng, đặc biệt là trong các kỳ nghỉ lễ. Hoạt động vận chuyển hành khách tháng Năm  tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do có kỳ Nghỉ Lễ 30/4 và 01/5 dài ngày và thời tiết thuận lợi nên nhu cầu đi lại của người dân tăng.  Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do một số sản phẩm nông nghiệp đang vào mùa thu hoạch như lúa vụ đông xuân,…nên hoạt động phục vụ ngành nông nghiệp tăng và các doanh nghiệp đầu tư thêm phương tiện có trọng tải lớn phục vụ vận chuyển hàng hóa đường dài. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024 tăng 8,76% về lượng khách vận chuyển và tăng 6,2% lượng hàng hóa vận chuyển so với cùng kỳ năm trước.

(1) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 5 năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 5 năm 2024 đạt 247,27 tỷ  đồng, tăng 3,39% so với tháng trước và tăng 13,58% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 68,67 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 2,93%), so với cùng kỳ năm trước tăng 18,13%; Vận chuyển ước đạt 1.016 nghìn lượt khách, tăng 8,05%; Luân chuyển ước đạt 133.523 nghìn lượt khách.km, tăng 7,0%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 161,12 tỷ đồng (so với tháng trước tăng 3,74%), so với cùng kỳ năm trước tăng 12,22%; Vận chuyển ước đạt 1.629 nghìn tấn, tăng 6,2%; Luân chuyển ước đạt 82.787 nghìn tấn.km, tăng 5,53%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1,83 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,92%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 15,65 tỷ đồng, tăng  8,29%.

(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước 5 tháng đầu năm 2024

Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 5 tháng đầu năm 2024 đạt 1.223,45 tỷ  đồng, tăng 16,83% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 353,33 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 28,6%; Vận chuyển ước đạt 5.031 nghìn lượt khách, tăng 8,76%; Luân chuyển ước đạt 648.322 nghìn lượt khách.km, tăng 8,41%.

- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 784,04 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,52%; Vận chuyển ước đạt 8.007 nghìn tấn, tăng 6,2%; Luân chuyển ước đạt 401.129 nghìn tấn.km, tăng 6,42%.

- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 9,28 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 22,21%.

- Hoạt động bưu chính và chuyển phát, doanh thu đạt 76,8 tỷ đồng, tăng  12,85%.

7. Giá cả thị trường   

7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Tháng 5 năm 2024 giá cả thị trường trong tháng ở địa phương ổn định, không có sự biến động lớn về giá, không xảy ra hiện tượng ghim hàng tăng giá. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 năm 2024 tăng 0,16% so với tháng trước, So với tháng 12/2023 CPI tháng 5 tăng 1,3% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,1%. Bình quân 5 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 2,11%.

So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2024 tăng 0,16% (khu vực thành thị tăng 0,17%; khu vực nông thôn tăng 0,14%).

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 06 nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,38%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,64%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,28%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,99%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,23%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,14%. Có 03 nhóm giảm là nhóm giao thông giảm 2,11%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,03%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,14%. Có 02 nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.

Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2024 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

Sáu nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

(1) Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,38%, trong đó:

- Lương thực: Chỉ số nhóm lương thực giảm 0,02%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,14% (gạo tẻ thường tăng 0,09%, gạo tẻ ngon tăng 0,7%, gạo nếp tăng 0,15%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng và giá lúa tăng. Riêng Nhóm bột mì và ngũ cốc khác giảm 2,57%, trong đó khoai giảm 6,35% (giảm từ 1000 đến 1500 đồng/kg) là do sản phẩm đang mùa thu hoạch và nhu cầu tiêu dùng giảm.

- Thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,76%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống tăng 0,28%, trong đó thịt lợn tăng 0,45%, thịt bò tăng 0,08% là do nhu cầu tiêu dùng tăng và ảnh hưởng giá thịt lợn hơi tăng. Nhóm thịt gia cầm tăng 0,36%, trong đó giá thịt gà tăng 0,33%, thịt gia cầm khác tăng 0,59%. Nhóm thủy sản tươi sống tăng 0,8% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,19%, nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,53%. Nhóm dầu mỡ và chất béo khác tăng 0,74%, trong đó dầu thực vật tăng 0,71%, mỡ động vật tăng 0,97% do tăng theo giá thịt lợn.

Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 2,25%, trong đó cà chua tăng 11,8% (tăng từ 2000 đến 3000 đồng/kg), su hào tăng 3,69%, đỗ quả tươi tăng 7,09%, rau muống tăng 3,09%, nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm rau trên trái vụ. Nhóm quả tươi, chế biến tăng 0,27%, trong đó xoài tăng 0,45%, quả tươi khác tăng 0,79%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng đồng thời các sản phẩm trên trái vụ.

Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,37% là do sữa chua tăng 1,39%, sữa bột người lớn tăng 0,49%, sữa bột trẻ em tăng 0,65%. Nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 1,12%, trong đó cà phê bột tăng 5,84%, cà phê hòa tan tăng 3,19%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá cà phê nhân tăng cao.

- Ăn uống ngoài gia đình: Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,15%, trong đó uống ngoài gia đình tăng 1,77%, đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,24%, nguyên nhân là do tăng giá một số mặt hàng nước giải khát.

(2) Đồ uống và thuốc lá: Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,64%, là do nhóm thuốc hút tăng 1,23%; nhóm nước khoáng và nước có ga tăng 0,95%, trong đó nước giải khát có ga tăng 1,46%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng thời tiết nắng nóng.

(3) May mặc, mũ nón và giày dép: Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,28%, là do nhóm quần áo may sẵn tăng 0,18%, trong đó quần áo cho em gái tăng 0,6%; nhóm giầy dép tăng 0,44%, trong đó giầy dép cho nữ tăng 0,56%; nhóm dịch vụ giầy, dép tăng 2,24%.

(4) Nhà ở và vật liệu xây dựng: Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,99%,  nguyên nhân chính là do giá điện sinh hoạt tăng 3,16% (do nhu cầu tiêu dùng tăng nên giá bình quân tăng); dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,95%. Ở chiều ngược lại giá gas giảm 1,65% (giảm 5.000 đồng/bình 12kg từ ngày 01/5/2024); giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá trong tháng tính bình quân so với tháng trước giảm 5,25%.

(5) Thiết bị và đồ dùng gia đình:Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,23%, tăng chủ yếu là do máy điều hòa nhiệt độ tăng 2,35%; giường, tủ, bàn ghế tăng 0,49%; đồ điện tăng 0,35%, trong đó quạt điện tăng 1,18%; đồ dùng bằng kim loại tăng 0,57%; vật phẩm tiêu dùng khác tăng 0,66%, trong đó giấy ăn tăng 2,7%.

(6) Hàng hóa và dịch vụ khác: Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,14% chủ yếu là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 0,65%, trong đó đồ trang sức tăng 5,15% nguyên nhân là tăng theo giá vàng

 Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

(1) Giao thông: Chỉ số nhóm giao thông giảm 2,11%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu giảm 4,64%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng giảm 4,74%, giá dầu diezel giảm 5,07%; giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 0,16%, trong đó vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 1,74%.

(2) Bưu chính viễn thông: Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,03%, là do thiết bị điện thoại giảm 0,08%, trong đó máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 1,77%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động.

(3) Văn hóa, giải trí và du lịch: Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,14% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,84%, trong đó ti vi màu giảm 0,89%. Ở chiều ngược lại, nhóm hoa, cây cảnh và vật cảnh tăng 2,29%, trong đó cây, hoa cảnh tăng 4,05% là do nhu cầu tiêu dùng tăng và lượng cung giảm nên giá tăng theo.

 Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ không biến động giá:  nhóm Giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.

So với tháng 5/2023, CPI tháng 5/2024 tăng 3,1%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,66%, tăng chủ yếu là do nhóm lương thực tăng 11,01%, riêng giá gạo tăng 14,36% là do giá gạo xuất khẩu tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 4,0%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,25%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,66%, tăng chủ yếu là do giá dầu hỏa tăng 9,65%, điện sinh hoạt tăng 11,0%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,03%; nhóm giao thông tăng 5,35% là do nhóm dịch vụ giao thông công cộng tăng 15,96%, nhóm nhiên liệu tăng 9,15%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,73%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng 11,37%; nhóm giáo dục tăng 1,34%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,2%.

Các nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 4,65%, giảm chủ yếu là do mặt hàng điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 2,86%.

So với tháng 12/2023, CPI tháng 5/2024 tăng 1,3%, trong đó có 08 nhóm hàng tăng giá, 02 nhóm giảm giá và 01 nhóm không biến động giá.

Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,84%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,98%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,05%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,63%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,75%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,41%; nhóm giao thông tăng 3,98%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,97%.

Các nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 1,12%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,39%.

Nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục.

Chỉ số giá tiêu dùng bình 5 tháng đầu năm 2024 tăng 2,11% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh

(1) Chỉ số giá vàng (+6,36%)

Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 5/2024 tăng 6,36% so với tháng trước; tăng 19,89% so với tháng 12/2023; tăng 31,44% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 5 tháng đầu năm 2024 tăng 20,96% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

(2) Chỉ số giá đô la Mỹ (+1,19%)

Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 5/2024 giao dịch bình quân quanh mức 25.466 VND/USD, tăng 1,19% so với tháng trước; tăng 4,02% so với tháng 12/2023; tăng 7,56% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 5 tháng đầu năm 2024 tăng 5,08%.

7.3. Giá sản xuất công nghiệp

Giá sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như nhu cầu thị trường; giá nguyên liệu đầu vào; mùa vụ sản xuất; tình hình lưu thông hàng hóa; tình hình xuất nhập khẩu cũng như các chính sách điều hành kinh tế của Nhà nước... Trong tháng các yếu tố trên ảnh hưởng tương đối lớn đến giá sản xuất công nghiệp. Chỉ số chung giá sản xuất công nghiệp tháng 5/2024 tăng 2,72% so với tháng trước; tăng 3,31% so với cùng kỳ năm trước và tăng 25,19% so với kỳ gốc năm 2020, cụ thể các nhóm mặt hàng như sau:

(1) Nhóm ngành khai khoáng: Chỉ số giá sản phẩm thuộc nhóm ngành khai khoáng tăng 0,37% so với tháng trước và tăng 6,34% so với cùng kỳ năm trước, nhóm khai khoáng tăng nhẹ so với tháng trước chủ yếu là giá đá xây dựng các loại tăng do nhu cầu sử dụng đá trong xây dựng tháng 5 tăng và do thời điểm này các đơn vị, doanh nghiệp, người dân triển khai xây dựng.

(2) Nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Chỉ số nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng 0,10% so với tháng trước và tăng 4,40% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung trong tháng nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo không có biến động, một số nhóm ngành có tăng giảm nhưng không lớn. Như: Sản phẩm chế biến thực phẩm tăng 0,19%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 0,47%; sản phẩm từ cao su và plastic giảm 1,56% (nguyên nhân là giá giá mủ cao su giảm).

(3) Nhóm điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: tăng 7,80% so với tháng trước và giảm 21,07% so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung nhóm điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng so với tháng trước do khu vực Tây Nguyên thời điểm hiện nay đang là mùa khô, mức nước trên các hồ thuỷ điện giảm, nguồn cung thuỷ điện bắt đầu giảm, giá bán điện của thuỷ điện tăng.

(4) Nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải: tăng 0,13% so với tháng trước và giảm 2,67% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số giá nước tự nhiên khai thác dùng cho sinh hoạt tăng  0,46% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước giảm 9,58%; Chỉ số giá hoạt động thu gom, xử lý rác thải ổn định so với tháng trước.

8. Một số tình hình xã hội

8.1. Tình hình đời sống dân cư

Trong tháng 4 năm 2024, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển; chế độ, chính sách về an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; tình hình dịch bệnh luôn kiểm soát tốt; chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện; cải cách thủ tục hành chính được thực hiện mạnh mẽ; các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn; nắng hạn kéo dài đã gây ra hạn hán, thiếu nước sinh hoạt và tưới tiêu cho cây trồng cục bộ tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh; tình hình tai nạn giao thông chưa được kiềm chế.

8.2. Tình hình nổi bật, bất thường về xã hội

Về y tế: Trong tháng, ngành Y tế đã thực hiện tốt công tác chuyên môn, các dịch bệnh trên người được kiểm soát tốt, công tác đảm bảo an toàn thực phẩm được triển khai thực hiện nghiêm túc.

  1. Tình hình dịch bệnh trong tháng 4 năm 2024:

 - Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, ghi nhận 02 ca mắc mới (Tu Mơ Rông 01, Ia H’Drai 01), tăng 02 ca so với tháng trước và giảm 16 ca so với tháng 4/2023. Luỹ tích đến 30/4/2024, không có tử vong, ghi nhận 05 ca mắc (phố Kon Tum 02, Tu Mơ Rông 02, Ia H’Drai 01), giảm 15 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 40 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 03, Đăk Tô 02, Tu Mơ Rông 34, Kon Plông 01), tăng 13 ca so với tháng trước, tăng 11 ca so với tháng 4/2023. Luỹ tích đến 30/4/2024, không có tử vong, ghi nhận 82 ca mắc1, giảm 04 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 48 ca mắc mới (Đăk Tô 02, Tu Mơ Rông 45, Kon Rẫy 01), tăng 26 ca so với tháng trước, tăng 29 ca so với tháng 4/2023. Luỹ tích đến 30/4/2024, không có tử vong, ghi nhận 96 ca mắc2, tăng 67 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 3 ổ dịch tại huyện Kon Rẫy, tăng 02 ổ dịch so với tháng trước và tăng 01 ổ dịch so với tháng 4/2023. Lũy tích đến 30/4/2024, ghi nhận 4 ổ dịch (Đăk Tô 01 và Kon Rẫy 03), giảm 02 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, ghi nhận 47 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 02, Đăk Glei 01, Kon Rẫy 44), tăng 42 ca so với tháng trước, tăng 43 ca so với tháng 4/2023. Luỹ tích đến 30/4/2024, không có tử vong, ghi nhận 60 ca mắc3, tăng 50 ca so với cùng kỳ năm trước.

- Bệnh Lao: Trong tháng, ghi nhận 27 ca mắc mới4, giảm 19 ca so với tháng trước, giảm 08 ca so với tháng 4/2023. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 30/4/2024, không có ca tử vong, ghi nhận 121 ca mắc5, giảm 12 ca so với cùng kỳ năm trước; trong đó lao phổi AFB (+): 85, lao phổi AFB (-): 06 và lao ngoài phổi: 30. Lũy tích từ 01/01/2018 đến 30/4/2024: ghi nhận 2.430 ca; trong đó tử vong 26 ca, hoàn thành điều trị 2.160 ca, đang được quản lý điều trị 244 ca.

- Bệnh Phong: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích từ 01/01/2024 đến 30/4/2024, không có ca tử vong, không ghi nhận ca mắc mới, giảm 01 ca so với cùng kỳ năm trước. Quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên): Đang quản lý 50 bệnh nhân; bệnh nhân cũ điều trị nội trú còn lại đầu tháng 19; bệnh nhân đến khám (kê đơn) trong tháng 18 lượt; bệnh nhân nhập viện trong tháng 08; bệnh nhân xuất viện trong tháng 12; chuyển Bệnh viện Phong - Da liễu TW Quy Hòa 01; bệnh nhân hiện còn đang điều trị nội trú 14.

- Phòng chống dịch Dại: Tính đến ngày 30/4/2024, trên địa bàn tỉnh không ghi nhận trường hợp mắc và tử vong do bệnh Dại. Đã tổ chức 01 đợt giám sát phòng chống bệnh Dại tại các xã Xiêr.

- Trong 4 tháng đầu năm 2024, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...); Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV); Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID-19); Đậu mùa khỉ; Cúm A(H1N1); Sốt rét; Bệnh do vi rút Zika; Viêm não Nhật Bản; Viêm gan vi rút A; Bạch hầu; Ho gà; Sởi...

 (b) Tiêm chủng mở rộng

- Tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho người từ 12 tuổi trở lên, kết quả đến 30/4/2024:

+ Nhóm đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,73%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 98,76%; tỷ lệ tiêm liều bổ sung đạt 96,7%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 1 đạt 92,6%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 2 đạt 100%.

+ Nhóm đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,52%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại đạt 96,03%.

+ Nhóm đối tượng từ 5 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,3%.

(c) Phòng chống HIV/AIDS

- Tình hình HIV/AIDS trong tháng 4/2024: Số người ghi nhận nhiễm HIV: 02 người (xét nghiệm khẳng định tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật) và 01 bệnh nhân tử vong.

- Lũy tích HIV/AIDS tính đến ngày 30/4/2024: Tổng số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS 594 người; trong đó tử vong do HIV/AIDS 212 người (AIDS 199, HIV 13), nhiễm HIV/AIDS còn sống 382 người (còn sống đang quản lý và tiếp cận được 247); nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 305 người, trong đó còn sống 105.

- Điều trị ARV: Tổng số bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV đến 30/4/2024 là 192 bệnh nhân (có 08 trẻ em). Tổng số bệnh nhân điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid (INH) 08.

 (d) An toàn vệ sinh thực phẩm (ATTP)

- Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2024, kết quả: Tổng số cơ sở được kiểm tra: 31 cơ sở. Hầu hết các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có ý thức chấp hành tốt các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm.

- Cấp 16 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm (cấp mới: 09 cơ sở, cấp lại: 07 cơ sở) và tiếp nhận bản tự công bố của 06 sản phẩm.

- Giám sát an toàn thực phẩm phục vụ Chương trình cầu truyền hình trực tiếp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.

- Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng xảy ra 07 trường hợp ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ do ăn, uống không đảm bảo vệ sinh.

 (e) Khám chữa bệnh

Đảm bảo công tác khám, thu dung và điều trị bệnh nhân; đồng thời tăng cường các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh điều trị nội trú, ngoại trú. Tổng số lượt khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập trong tháng 74.673 lượt người, giảm 6,3% so với tháng trước và số lượt điều trị nội trú 6.887 lượt người, tăng 9,1% so với tháng trước; công suất sử dụng giường bệnh kế hoạch bình quân của các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện và phòng khám đa khoa khu vực đạt 65,0% (tháng trước 63,3%), trong đó tuyến tỉnh 81,7% (tháng trước 81,3%), tuyến huyện 41,4% (tháng trước 37,6%) và phòng khám đa khoa khu vực 65,7% (tháng trước 68,4%).

 Về văn hóa: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều chương trình, hoạt động du lịch, văn hóa, nghệ thuật đặc sắc thu hút đông đảo người dân và du khách trong và ngoài tỉnh.

 Ngày 27/4/2024, tại không gian “Đăk Hà ngày mùa”, rừng đặc dụng Đăk Uy, huyện Đăk Hà tổ chức khai mạc Tuần lễ Văn hóa - Du lịch gắn với Phiên chợ Nông nghiệp sạch huyện Đăk Hà năm 2024; Sáng 03/5/2024, huyện Đăk Glei tổ chức khai mạc Ngày hội Văn hóa, thể thao các dân tộc huyện Đăk Glei năm 2024 tại sân Thể thao - Lễ hội huyện. Tối ngày 05/5/2024, tại Nhà rông Kon K’lor (TP Kon Tum), Đài truyền hình Việt Nam tổ chức Chương trình cầu truyền hình trực tiếp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ với chủ đề “Dưới lá cờ Quyết Thắng”, đây là một trong 5 điểm cầu truyền hình trực tiếp về lễ kỷ niệm; Tối 16/5/2024, tại sân vận động huyện Đăk Glei đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Đăk Pék, giải phóng hoàn toàn huyện Đăk Glei và đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đối với di tích lịch sử Chiến thắng Đăk Pék; Ngày 25/4/2024, tại làng Tái định cư Tu Thó (xã Tê Xăng, huyện Tu Mơ Rông), UBND huyện Tu Mơ Rông tổ chức Hội thi ẩm thực quốc tế và xác lập kỷ lục Việt Nam về các món ăn chế biến từ sâm dây. 

 Về thể dục thể thao: Trên địa bàn tỉnh, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì; Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng nhân dân tích cực triển khai; thể thao thành tích cao được chú trọng.

8.3. Tình hình bất thường về thiên tai, hỏa hoạn

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh Kon Tum thời tiết khô hạn, nắng nóng đã gây ra khô hạn và thiếu nước cục bộ tại một số huyện trên địa bàn tỉnh. Xảy ra 03 vụ hạn hán tại huyện Đăk Tô, huyện Đăk Hà và thành phố Kon Tum, 01 vụ thiệt hại do mưa lớn tại huyện Ia H’Drai. Mưa lớn đã gây hư hại 05 căn nhà và tình hình hạn hán đã gây thiệt hại đối với một số diện tích cây trồng, thiếu nước đối với một số giếng nước cung cấp nước sinh hoạt cho người dân

8.4. Tình hình môi trường

Trong tháng, Công an tỉnh đã phát hiện 01 vụ Hủy hoại rừng trên địa bàn huyện Tu Mơ Rông, hiện cơ quan chức năng đang củng cố hồ sơ để xử lý theo quy định của Pháp luật.

Lực lượng chức năng trên địa bàn huyện Đăk Hà đã phát hiện và xử lý 03 vụ vi phạm về lĩnh vực môi trường, cụ thể: Phát hiện, xử lý khởi tố 02 vụ Hủy hoại rừng; 01 vụ khai thác khoáng sản trái phép tại thôn Pa Cheng, xã Đăk Long, hiện cơ quan chức năng đang củng cố hồ sơ để xử lý theo quy định của Pháp luật

8.5. Tình hình trật tự an toàn xã hội

- Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 17 vụ[3] (giảm 14 vụ so với tháng trước). Hậu quả, thiệt hại: 03 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 4.4 tỷ đồng. Địa bàn: TP Kon Tum 11 vụ; Đăk Hà 02 vụ; Sa Thầy 02 vụ; Ngọc Hồi 01 vụ; Đăk Glei 01 vụ.

- Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 01 vụ Vận chuyến hàng cấm trên địa bàn huyện Ngọc Hồi (giảm 02 vụ so với tháng trước).

- Phạm tội về ma tuý: Phát hiện 08 vụ (tăng 01 vụ so với tháng trước), cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 05 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 02 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: l,61g Heroin; 18,555g ma túy tổng hợp. Địa bàn: TP Kon Tum 07 vụ; Ngọc Hồi 01 vụ.

- Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 09 vụ TNGT3, làm chết 08 người, bị thương 04 người. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 88,5 triệu đồng. So với tháng trước giảm 05 vụ, giảm 01 người chết, giảm 11 người bị thương.

-Tình hình cháy, nỗ: Xảy ra 03 vụ cháy (giảm 02 vụ so với tháng trước), không có thiệt hại về người; thiệt hại về tài sản khoảng 417 triệu đồng. Nguyên nhân: Do bất cẩn trong sử dụng lửa 01 vụ; đang điều tra 02 vụ.

- Tình hình sự cố, tai nạn: Xảy ra 01 vụ tai nạn đuối nước. Hậu quả: 02 người chết.

 


[1] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư

[2] Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum

[3] Giết người 01 vụ; cố ý gây thương tích 02 vụ; Trộm cắp tài sản 05 vụ; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 06 vụ- Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 02 vụ; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức 01 vụ.

Xem và tải về:   Tải về

Cục Thống kê 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC