• Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử của Cục Thống kê tỉnh Kon Tum.
  • Địa chỉ: 415 URE - Phường Trường Chinh - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum.
Thứ Ba, 23/04/2024 23:37
Thông tin hoạt động ngành
Xây dựng và ban hành bộ chỉ tiêu thống kê về kinh tế số là thực sự cấp thiết
Cập nhật: Thứ Ba, 05/10/2021 09:22

 

Việt Nam chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số với mục tiêu gia nhập nhóm 50 quốc gia dẫn đầu về Chính phủ điện tử. Để giám sát, đánh giá thực hiện mục tiêu đặt ra, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số. Phóng viên Tạp chí Con số và Sự kiện đã có cuộc phỏng vấn Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương xoay quanh chủ đề này

Phóng viên: Chúng ta đã có chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số với mục tiêu gia nhập nhóm 50 quốc gia dẫn đầu về Chính phủ điện tử. Để giám sát, đánh giá thực hiện mục tiêu đặt ra, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số. Tổng cục Thống kê dự kiến thực hiện nhiệm vụ này như thế nào, thưa bà?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Trước hết phải khẳng định việc đẩy mạnh chuyển đổi số với mục tiêu gia nhập nhóm 50 quốc gia dẫn đầu về Chính phủ điện tử là một chủ trương lớn, đúng đắn của Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu, xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số. Đây là cơ sở để thu thập, tổng hợp, biên soạn và công bố các chỉ tiêu thống kê về kinh tế số, từ đó cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ phục vụ quản lý điều hành của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương.

Ngay từ đầu năm 2021, Tổng cục Thống kê đã thành lập Tổ xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số với thành viên từ các Bộ, ngành, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các đơn vị chuyên ngành của Tổng cục Thống kê. Tổ có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số gồm danh mục chỉ tiêu và nội dung chỉ tiêu, trong đó nội dung mỗi chỉ tiêu được chuẩn hóa theo các nội dung như khái niệm, phương pháp tính, phân tổ chủ yếu, kỳ công bố và cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp.

Đến nay, Tổng cục Thống kê đã tổ chức nhiều cuộc họp, hội thảo với các chuyên gia quốc tế, chuyên gia trong nước, với các Bộ, ngành có liên quan và đã đề xuất Dự thảo hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế số với 54 chỉ tiêu.

Để đảm bảo tính so sánh quốc tế, Dự thảo 54 chỉ tiêu kinh tế số được xây dựng trên cơ sở bộ chỉ tiêu kinh tế số do Nhóm các quốc gia phát triển (G20) đề xuất, bao gồm 05 nhóm: (1) Nhóm chỉ tiêu phản ánh kỹ năng số và nguồn nhân lực kỹ thuật số; (2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hạ tầng số; (3) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ phổ cập phương tiện số; (4) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ phổ cập dịch vụ trực tuyến; và (5) Nhóm chỉ tiêu phản ảnh quy mô kinh tế số.

Hiện tại, hệ thống chỉ tiêu này đang được gửi xin ý kiến Bộ, ngành và đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê để xin ý kiến của tổ chức, cá nhân.

Dự kiến, Tổng cục Thống kê sẽ tiếp tục làm việc với các Bộ, ngành, các tổ chức nghiên cứu để hoàn thiện dự thảo, trình Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành vào tháng 12/2021.

Bên cạnh đó, Tổng cục Thống kê đã lồng ghép câu hỏi để thu thập thông tin của một số chỉ tiêu thông qua các cuộc điều tra thống kê phục vụ tính toán các chỉ tiêu này trong thời gian sớm nhất.

Phóng viên: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định kinh tế số là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong những năm tới: Đến năm 2025, kinh tế số phải đạt khoảng 20% GDP, đến năm 2030, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Để đo lường đóng góp của kinh tế số trong GDP có thách thức gì không, thưa Bà?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Kinh tế số gồm các hoạt động kinh tế có sử dụng thông tin số, tri thức số làm yếu tố sản xuất chính; sử dụng mạng Internet, mạng thông tin làm không gian hoạt động; và sử dụng công nghệ điện tử, viễn thông và thông tin để tăng năng suất lao động và tối ưu hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.

Trong Dự thảo hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế số đã đề xuất chỉ tiêu “Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP” - Đây là chỉ tiêu quan trọng để đo lường quy mô cũng như đánh giá tầm quan trọng của kinh tế số trong toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, dưới góc độ kỹ thuật, việc xác định phạm vi và đo lường quy mô hay sự đóng góp của kinh tế số trong GDP là công việc khó khăn, phức tạp và còn nhiều thách thức.

Thách thức trong trong việc thống nhất định nghĩa, khái niệm và nội hàm của kinh tế số: Để đo lường được “quy mô” của kinh tế số, trước hết phải làm rõ khái niệm “kinh tế số” với đầy đủ nội hàm và các thành tố cấu thành. Khái niệm này cần được xem xét toàn diện, theo hướng động và mở, đồng thời nêu rõ phạm vi và nhận diện các hoạt động kinh tế số qua các chỉ tiêu cụ thể để đo lường và lượng hóa.

Hiện nay, khi đề cập đến kinh tế số có nhiều khái niệm, quan điểm và cách tiếp cận khác nhau dẫn tới sự khác biệt lớn trong kết quả tính toán quy mô kinh tế số và đóng góp của kinh tế số trong GDP. Điều này cản trở việc so sánh giữa các quốc gia về hiện trạng phát triển kinh tế số.

Ví dụ: Theo báo cáo kinh tế số của các nước G20 “Lộ trình xây dựng khung đo lường kinh tế số”, Saudi Arabia, 2020.

“Năm 2019, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Úc đã công bố ước tính về quy mô của kinh tế số trong GDP tính đến năm 2017. Theo đó, Úc là 5,8% và Hoa Kỳ là 6,9%, trong khi đó, ước tính do Học viện Công nghệ Thông tin và Truyền thông Trung Quốc cho thấy năm 2017, Kinh tế số chiếm 32,9% GDP Trung Quốc, năm 2011 là 20,3% GDP (Miura, 2018). Các ước tính năm 2017 so với năm 2011 do Hoa Kỳ và Úc tính vẫn ổn định (Barefoot và cộng sự, 2018; ABS, 2019). Những khác biệt về quy mô và tốc độ tăng trưởng của Kinh tế số không phải do các nguồn dữ liệu hoặc phương pháp luận khác nhau mà là do ba quốc gia đã áp dụng các định nghĩa khác nhau về Kinh tế kỹ thuật số”.

Do vậy, cần sớm thống nhất khái niệm, định nghĩa và cách thức đo lường kinh tế số trên toàn cầu để phản ánh, đánh giá thống nhất, đảm bảo phù hợp với thực tiễn và so sánh quốc tế.

Thách thức liên quan đến xác định các nguồn số liệu biên soạn quy mô kinh tế số: Để biên soạn đầy đủ quy mô của các hoạt động kinh tế số, các nguồn dữ liệu từ điều tra, báo cáo, hồ sơ hành chính theo phương pháp truyền thống không thể bao quát toàn bộ các hoạt động kinh tế số. Trong tương lai, chúng ta cũng cần nghiên cứu, sử dụng thêm các nguồn dữ liệu phi truyền thống như: Dữ liệu lớn (big data), dữ liệu trực tuyến…

Ngoài ra, dữ liệu về nền kinh tế thay đổi, đổi mới liên tục do sự thay đổi của công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật; các chuẩn mực, khái niệm thống kê thay đổi liên tục gây khó khăn cho việc phân tích theo ngành kinh tế, theo chuỗi.

Bên cạnh đó, có những sản phẩm, dịch vụ kỹ thuật số gốc được mua bản quyền và sau đó cho phép nhiều người sử dụng miễn phí cũng sẽ khó quan sát được mức độ sử dụng cũng như xác định được giá trị sao chép của các sản phẩm, dịch vụ đó. Điều này cũng gây khó khăn cho việc quan sát, thống kê các loại sản phẩm, dịch vụ này.

Thách thức trong xác định các hoạt động kinh tế số trong từng ngành kinh tế: Xu hướng phát triển và ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế và đời sống xã hội ngày càng tăng dẫn tới khó khăn trong việc xác định và bóc tách hoạt động kinh tế số theo ngành kinh tế.

Để thực hiện được điều này đòi hỏi phải lồng ghép các câu hỏi vào bảng hỏi của các cuộc điều tra thống kê hiện hành hoặc xây dựng báo cáo thống kê nhằm khai thác dữ liệu sẵn có của các cơ quan nhà nước. Từ đó xác định hoạt động nào thuộc phạm vi của hoạt động kinh tế số để biên soạn, tính toán kết quả hoạt động kinh tế số của các địa phương và cả nước.

Thách thức đối với cập nhật và phản ánh các sản phẩm số trong chi phí đầu vào chi phí đầu tư cho hoạt động sản xuất: Công nghệ số, kỹ thuật số đã cho phép sản xuất và phân phối hàng hóa nhanh nhất, nhiều nhất người sản xuất và người sử dụng. Do đó nó đang trở thành một yếu tố quan trọng của sản xuất, tương tự như vốn vật chất và vốn vô hình. Việc hạch toán và phân chia giá trị của sản phẩm số vào chi phí trung gian hay tích lũy tài sản cần thống nhất với chuẩn mực của hạch toán kế toán, phù hợp với quy định của Hệ thống tài khoản quốc gia.

Ví dụ, về lý thuyết, phải đo lường giá trị của cơ sở dữ liệu, nhưng trên thực tế, thường chỉ đo lường phần mềm; chưa phân biệt dữ liệu được sử dụng cho tiêu dùng trung gian và dữ liệu được sử dụng lâu dài như tài sản cố định. Mặc dù việc sử dụng dữ liệu không ảnh hưởng đến năng lực sản xuất, nhưng rõ ràng giá trị kinh tế của nó có thể giảm với tốc độ khá nhanh.

Phóng viên:  Theo nhiều chuyên gia, đo lường đóng góp của kinh tế số trong GDP là công việc khó khăn, phức tạp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đo lường để giám sát, đánh giá kết quả thực hiện của chủ trương chuyển đổi số. Tổng cục Thống kê kiến nghị xử lý những vấn đề này như thế nào, thưa Bà?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Việc xác định phạm vi, đo lường đầy đủ quy mô và đóng góp của kinh tế số trong GDP để phản ánh sát thực sự phát triển kinh tế -xã hội trong thời đại số, phục vụ giám sát, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và các chiến lược, chương trình phát triển kinh tế số tầm vĩ mô. Đây là công việc khó khăn, phức tạp cần được tiến hành thận trọng, khoa học, gắn lý luận với thực tiễn và sử dụng nhiều nguồn lực. Trong thời gian tới, để kết quả đo lường kinh tế số được đảm bảo, Tổng cục Thống kê kiến nghị một số nội dung sau:

Một là, cần thống nhất việc tiếp cận để xem xét, đo lường quy mô của kinh tế số theo phạm vi rộng nhất. Trong quá trình biên soạn phân tổ các hoạt động kinh tế số theo ba phạm vi (lõi, hẹp và rộng). Theo đó, kinh tế số là các hoạt động kinh tế sử dụng kiến thức, thông tin được số hóa để hướng dẫn, nâng cao phân bổ nguồn lực, năng suất, mang lại tăng trưởng kinh tế chất lượng cao.

Kinh tế số gồm các mô hình kinh doanh và quản lý tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Về bản chất, đây là các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nền kinh tế dựa trên ứng dụng công nghệ số, là một yếu tố cần thiết để nâng cao năng suất lao động của toàn xã hội.

Tổng cục Thống kê sẽ tập trung biên soạn và công bố chính thức quy mô kinh tế số theo phạm vi lõi thể hiện ở hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị tăng thêm của các ngành sản xuất hàng hóa, dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) và tổng số việc làm trong các ngành này. Phạm vi này bao gồm các hoạt động sản xuất 12 nhóm hàng hóa và dịch vụ CNTT-TT khác nhau thuộc 2 nhóm chính: (i) hàng hóa/thiết bị CNTT-TT (gồm thiết bị tin học văn phòng, thiết bị viễn thông, thiết bị đo lường, điện tử và quang học, máy tính); và (ii) dịch vụ CNTT-TT (gồm dịch vụ viễn thông, dịch vụ phần mềm và dịch vụ thông tin). 

Đồng thời, Tổng cục cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu và xác định nguồn thông tin để đo lường kinh tế số theo phạm vi hẹp và phạm vi rộng. Quy mô của kinh tế số khi đó được đo lường thông qua chỉ tiêu giá trị tăng thêm của toàn bộ các hoạt động liên quan tới kinh tế số, ngoài phạm vi lõi còn bao gồm các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, các giao dịch kinh doanh khác được hỗ trợ bởi CNTT-TT; hoạt động dựa vào đầu vào kỹ thuật số và các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào nền tảng số (google, face book, amazon, zalo, lazada, grap, bee, giao hàng tiết kiệm…), các sàn giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới, bán lẻ trực tuyến, đồng tiền số chung, nền tảng công nghiệp số, học trực tuyến, khám bệnh trực tuyến, làm việc từ xa, vận chuyển, giao nhận, quảng cáo trực tuyến...

Kết quả tính toán cần bao gồm đầy đủ toàn bộ các hoạt động trong phạm vi đã được đề cập để phản ánh đầy đủ và toàn diện quy mô cũng như đóng góp của kinh tế số trong kết quả hoạt động của nền kinh tế.

Hai là, lựa chọn các chỉ tiêu cốt lõi, phản ánh toàn diện nhất về kinh tế số ở tầm vĩ mô (tầm quốc gia) và có tính khả thi để quy định trong Phụ lục – Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia ban hành theo Luật Thống kê đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc xây dựng, lồng ghép các chỉ tiêu thống kê về kinh tế số trong các cuộc điều tra thống kê, chế độ báo cáo thống kê và sử dụng hồ sơ hành chính cho mục đích thống kê.

Ba là, hoàn thiện và ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số - đây là bức tranh tổng thể cho phép phản ánh sát thực các hoạt động kinh tế số, đồng thời đánh giá kết quả thực hiện các chủ chương, chính sách phát triển kinh tế số. Đây cũng là cơ sở để thực hiện phân công, phối hợp và gắn trách nhiệm của Bộ, ngành có liên quan trong thu thập, tổng hợp và công bố các chỉ tiêu kinh tế số.

 Hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế số phải được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc cơ bản như: Bảo đảm phản ánh toàn diện sự đóng góp của kinh tế số cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như tác động của nó đối với đời sống kinh tế-xã hội; bảo đảm tính khả thi (có thể thu thập được); và bảo đảm so sánh quốc tế (theo chuẩn mực quốc tế). 

Bốn là, lồng ghép các nội dung liên quan tới kinh tế số vào các cuộc điều tra hiện hành. Theo đó, nội dung được lồng ghép phải đảm bảo để thu thập đủ thông tin để tính toán tỷ trọng của kinh tế số trong từng ngành kinh tế (theo hệ thống ngành kinh tế Việt Nam năm 2018), cũng như tỷ trọng của toàn bộ kinh tế số trong GDP của cả nước. Do vậy, để tính toán được đầy đủ, chính xác, cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân trong việc cung cấp thông tin đầu vào để biên soạn các chỉ tiêu phản ánh kinh tế số ở cả phía cung và phía cầu.

Năm là, tăng cường năng lực thống kê trong đo lường kinh tế số theo tiêu chuẩn quốc tế (hệ thống tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán quốc tế (BOP), tiêu chuẩn phân ngành, mã VSIC, …); bổ sung các khái niệm mới, sản phẩm, dịch vụ mới trên nền tảng số vào rổ hàng hóa và trọng số tính CPI, PPI, GDP)…; nâng cao hiệu quả phối kết hợp, cung cấp thông tin, số liệu về kinh tế số và mức độ chuyển đổi số; áp dụng phương pháp và công cụ thống kê hiện đại để để đo lường kinh tế số.

Sáu là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thống kê. Để đo lường đầy đủ các khía cạnh của kinh tế số, ngành Thống kê cần ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn, công nghệ trí tuệ nhân tạo để thu thập thông tin về các hoạt động kinh tế số.

Xây dựng ứng dụng nền tảng thu thập và xử lý, ứng dụng chính thức dữ liệu lớn tích hợp với kho dữ liệu vi mô tập trung thống nhất và bổ sung các ứng dụng thống kê sử dụng công nghệ dữ liệu lớn vào kho ứng dụng hỗ trợ hoạt động thống kê.

Quy hoạch, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông của Tổng cục Thống kê đáp ứng yêu cầu thu thập, xử lý, tổng hợp, phân tích, phổ biến và lưu trữ dữ liệu các cuộc điều tra, Tổng điều tra thống kê trong Chương trình điều tra thống kê quốc gia.

Như vậy, chỉ tiêu “Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP” là một trong các chỉ tiêu tổng hợp quan trọng trong Bộ chỉ tiêu kinh tế số. Chỉ tiêu này không chỉ cho phép phản ánh toàn diện nhất thực tiễn phát triển kinh tế số của Việt Nam mà còn cho biết kết quả thực hiện các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế số cũng như đóng góp của kinh tế số đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế. Để biên soạn và tính toán được chỉ tiêu này cần thống nhất cả về lý luận và cách thức triển khai thực hiện.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Bà đã trả lời phỏng vấn!

Nguồn: consosukien.vn 

TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC